Nhảy đến nội dung
 

Hà Tiên thập cảnh: Dấu xưa Lư Khê ngư bạc

Lư Khê ngư bạc là cảnh thứ 10 trong Hà Tiên thập vịnh của Mạc Thiên Tích. Thi sĩ Đông Hồ giải thích: "Lư là cá vược, khê là khe, rạch. Ngư là người lưới cá, câu cá. Bạc là thuyền đỗ bến. Lư Khê ngư bạc là cảnh Rạch Vược, nơi thuyền ngư đỗ bến".

Rạch Lư Khê chia đôi ngả

Con rạch Lư Khê trổ ra 2 vàm, 1 vàm ra Đông Hồ và 1 vàm trổ ra chân núi Gành, làng Thuận Yên, nhưng vàm này giờ đã bị lấp. Chỗ ngã ba hợp lưu giữa 2 dòng nước có một vũng rộng lớn như ao hồ, nước sâu mà trong mát, biệt thành một cảnh "đàm thủy thiên trì". Sau thời gian khắc in sách Hà Tiên thập vịnh, Mạc Thiên Tích có dựng ở đây một ngôi Điếu Đình, làm chỗ nhàn hạ buông câu, để tiêu dao tuế nguyệt…

Sách Gia Định thành thông chí chép rạch Lư Khê ở cách trấn thự 7 dặm rưỡi về phía đông, cách phía đông núi Tô Châu 4 dặm rưỡi. Phía nam rạch thông ra biển, phía tây có Điếu Đình, là nơi xưa kia Mạc Quận công lúc rảnh đến ngồi câu cá. Rạch sâu 5 thước, dài 5 dặm rưỡi, chảy quanh quẹo rồi lên phía bắc ra Đông Hồ. Bờ phía đông có dân cư thôn Tiên Thuận.

Chỗ Rạch Vược xưa thông ra biển bây giờ là quốc lộ 80, đường vào Hà Tiên, nhưng đã mất dấu từ lâu. Theo mô tả, từ phía biển nhìn vào bên trái có gành đá, người địa phương gọi là Mũi Gành. Bên phải là Đình thần Thuận Yên, nằm dưới chân ngọn núi nhỏ gọi là Núi Đồn. Con đường này ngày trước gọi là đường Hòn Chông, người Pháp đặt tên là lộ số 8. Trước năm 1940, có một cây cầu sắt băng qua dòng Rạch Vược. Đến năm 1943, người Pháp cho lấp cửa biển Rạch Vược để lưu thông lộ số 8. Năm 1944, sau khi khánh thành lộ số 8 thì tháo dỡ cầu sắt.

Khoảng năm 1930, từ sau khi có con kinh xáng Rạch Giá - Hà Tiên thì Rạch Vược nhận thêm nguồn nước từ kinh xáng hòa vào nguồn nước từ Đông Hồ. Từ hướng biển vào, Rạch Vược chảy qua Mũi Gành rồi cặp theo Núi Đồn tới Núi Nhọn nên đoạn này có tên kinh Núi Nhọn. Khi lượn qua Núi Đồng thì con rạch phình to, ở đoạn này dòng nước đổi màu, dân địa phương không giải thích được. Nhưng có lẽ vì qua nhiều núi mà đoạn này hiện nay còn có tên là ấp Rạch Núi.

Đình Thuận Yên nằm cạnh con đường nhỏ ấp Rạch Núi. Đình mới xây dựng lại trên nền cũ, mái lợp tôn, cửa sắt khá đơn sơ. Ngôi đình thờ Đại càn Nam Hải Tứ vị thánh nương, là bốn vị nữ thần phù hộ người đi biển.

Hà Tiên thập cảnh đề thơ

Thi sĩ Đông Hồ trong Văn học miền Nam - Văn học Hà Tiên, diễn giải: Hà Tiên thập cảnh là 10 danh thắng ở chung quanh trấn lỵ Phương Thành, do Mạc Thiên Tích chọn mệnh đề và xếp theo thứ tự. Là 10 cảnh mà hai cảnh đối nhau thành một cặp. Như Kim Dự lan đào với Bình San điệp thúy, Tiêu Tự thần chung với Giang Thành dạ cổ, Thạch Động thôn vân với Châu Nham lạc lộ, Đông Hồ ấn nguyệt với Nam Phố trừng ba và Lộc Trĩ thôn cư với Lư Khê ngư bạc.

Trong đó, Kim Dự và Bình San là 2 cảnh hải đảo sơn cương, địa thế vững vàng như thái sơn bàn thạch. Kim Dự lan đào là hòn đảo vàng, ngăn chặn sóng to gió cả ở cửa biển Hà Tiên. Mạc Thiên Tích đặt chữ Kim ở đây là có dụng ý văn hoa mà tự hào. Bình San là ngọn núi dựng như bức bình phong, điệp thúy là lớp lớp từng từng một màu xanh… Cảnh này đối với Kim Dự, vì bình ở đây là phên che giậu chống cho một cõi biên thùy.

Tiêu Tự và Giang Thành là hai cảnh kiến trúc quy mô, một là chùa chiền và một biểu thị cho đồn lũy quân sự. Tiêu Tự là cảnh chùa vắng vẻ tịch mịch. Thần chung là tiếng chuông buổi sớm mai. Cảnh chùa này do Mạc Cửu cất cho thân mẫu tu hành. Còn Giang Thành là bảo đồn thú bên bờ sông. Dạ cổ là tiếng trống cầm canh ban đêm, ngụ ý lãnh thổ được canh phòng nghiêm nhặt. Thơ Giang Thành dạ cổ có câu: "Ác vàng vừa lặn non tây/ Liễu dinh tiếng trống vang dầy sơn xuyên/ Càng khuya càng nhặt máy binh/ Giao nghe sởn gáy, chuột rình nép hơi".

Thạch Động và Châu Nham là hai cảnh sơn nham thạch cốc, thiên bảo vật hoa. Thạch Động là động đá, thôn vân là nuốt mây. Lúc xưa thi nhân nhìn thấy cảnh mây tuôn khói tỏa bên cửa động mà nghĩ rằng động khẩu hút khói nuốt mây. Còn Châu Nham là ngọn núi như châu ngọc. Lạc lộ là đám cò trắng bay đáp, là nơi quy tụ các loài chim ăn cá tôm sò ốc… Đông Hồ và Nam Phố là cảnh hồ hải khoáng hoạt tung hoành, tự nhiệm tiêu dao trong vân thủy yên hà. Đông Hồ ở phía đông thành Hà Tiên. Vì hồ ở phía đông nên khi trăng mọc thì nhô lên ngay giữa mặt nước gương hồ. Nam Phố là bãi biển phía nam, còn Trừng ba là lặng sóng.

Lộc Trĩ - Lư Khê là cảnh sinh hoạt thôn trang nhà đủ người no, an cư lạc nghiệp. Lộc Trĩ là Mũi Nai, mũi núi như hình con nai. Thôn cư là thôn trại điền trang, vườn ruộng phì nhiêu, mùa màng phong túc. Lư Khê là Rạch Vược - khe rạch nơi có nhiều giống cá vược. Theo thi sĩ Đông Hồ, cũng như Mũi Nai là tên nôm mà dịch thành Lộc Trĩ, tên chữ. Còn ở đây tên nôm Rạch Vược cũng dịch thành tên chữ Lư Khê. Ngư bạc là thuyền ngư đổ bến…

Lê Quý Đôn trong sách Phủ biên tạp lục đã ngợi khen Mạc Thiên Tích: "Năm Bính Thìn (1736) Thiên Tứ kế tập, đón mời văn sĩ, ưa thích thi chương, tài văn phong lưu, một phương mến trọng. Tôi từng thấy bản khắc 10 bài vịnh Hà Tiên đều do Tứ đề mà các văn nhân bắc quốc và Thuận Hóa, Quảng Nam cùng họa vần, không thể bảo rằng hải ngoại không có văn chương được". (còn tiếp) 

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: daisanjsc@gmail.com

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn