Doanh nghiệp Việt không bị động trước thuế đối ứng của Mỹ

Từ 7/8, thuế đối ứng với hầu hết đối tác thương mại của Mỹ bắt đầu áp dụng theo mức mới, dao động 10-41%. Mức dành cho Việt Nam là 20%, thấp hơn tuyên bố ban đầu của Tổng thống Donald Trump (46%), song cao hơn so với thuế suất đang áp dụng của nhiều ngành hàng xuất khẩu sang Mỹ.
Việc tăng thuế đặt ra thách thức nhất định. Theo ông Phạm Văn Việt, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty TNHH Việt Thắng Jean (Viet Thang Jean), ngành dệt may sẽ chịu áp lực từ chi phí đầu vào tăng, biên lợi nhuận bị thu hẹp trong ngắn hạn. "Đặc thù ngành may mặc là sản xuất theo mùa vụ, thời gian xoay vòng đơn hàng rất ngắn. Việc thay đổi thuế suất gây khó cho doanh nghiệp trong tái đàm phán giá, nhất là các hợp đồng đã chốt từ trước", ông nói.
Song thuế đối ứng không khiến các doanh nghiệp xuất khẩu bị động. Thực tế, họ đã xây dựng kịch bản và chuẩn bị phương án ứng phó từ tháng 4 - thời điểm Mỹ công bố về loại thuế này. Nhiều doanh nghiệp thậm chí đã có động thái dịch chuyển, sẵn sàng cho trường hợp kém lạc quan nhất.
"Ban đầu, chúng tôi chuẩn bị tâm thế ứng phó với kịch bản xấu, thuế lên đến 30-46%. Nên con số chính thức 20% là một tín hiệu tích cực, thấp hơn nhiều so với lo ngại ban đầu", ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Vina T&T Group, chia sẻ.
Đa dạng hóa thị trường, sản phẩm là cách đầu tiên các doanh nghiệp tính tới. Mỹ hiện là thị trường đầu ra chủ lực, chiếm khoảng 46% tổng kim ngạch xuất khẩu của Vina T&T, tương đương gần 50 triệu USD trong nửa đầu năm nay. Để giảm phụ thuộc vào thị trường này, họ mở rộng xuất khẩu sang nhiều nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, EU. Điều này giúp tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ của doanh nghiệp giảm từ 65% năm ngoái xuống mức hiện tại (46%).
Ngoài trái cây, Vina T&T đang đa dạng hóa sản phẩm bằng cách đẩy mạnh xuất các mặt hàng chế biến như nước mắm, bánh tráng, ô mai...
Không riêng Vina T&T, kết quả khảo sát do Ban Nghiên cứu Phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) và VnExpress thực hiện vào tháng 6 với trên 1.500 doanh nghiệp, cho thấy 51,6% đơn vị xuất khẩu lên kế hoạch tìm thị trường mới để ứng phó với rủi ro thuế quan. Giải pháp này cũng là ưu tiên của nhóm sản xuất, kinh doanh trong nước (gần 35%).
Xét theo ngành, doanh nghiệp các lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ, nông-lâm và thủy sản ưu tiên tìm thị trường ngoài Mỹ. Trong các giải pháp thích ứng, chỉ số ít lựa chọn tăng giá bán hoặc nhập khẩu từ thị trường này nhằm ứng phó thuế quan.
Từ tháng 4, SK Foods, đơn vị chuyên sản xuất các sản phẩm từ bột gạo như ống hút, bún, mì, nui, phở lập kế hoạch chuyển dịch thị trường xuất khẩu sang EU, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, UAE. Mở rộng thị trường cũng là giải pháp Dệt may Thành Công đưa ra để ứng phó với tình hình thế giới biến động và đảm bảo kế hoạch kinh doanh.
Việt Nam tham gia 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, cùng 70 cơ chế hợp tác song phương. Theo TS Bùi Quý Thuấn, Khoa Kinh tế và kinh doanh quốc tế (Trường Kinh tế Phenikaa), đây là lợi thế giúp các doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu sang EU, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước ASEAN, giảm phụ thuộc vào thị trường mua lớn nhất.
Ngoài ra, Mỹ chỉ chiếm khoảng 13% tổng nhập khẩu toàn cầu, đồng nghĩa các doanh nghiệp Việt còn dư địa lớn để khai thác và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.
Doanh nghiệp cũng chủ động đàm phán, chia sẻ chi phí với đối tác để giữ chân khách hàng. Việt Thắng Jean đã thương lượng lại với nhà mua để cùng chia sẻ mức phí 3% "đội" lên do thuế quan với hàng dệt may tăng từ 15,2% hiện tại lên 20%.
Năm nay, Việt Nam đặt mục tiêu xuất khẩu tăng 12%, tương đương 450 tỷ USD. Riêng với thị trường Mỹ, 5 tháng đầu năm, thương mại hai chiều đạt 77,4 tỷ USD, tăng 36,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong đó, Việt Nam xuất đi 71,7 tỷ USD, nhập về 5,7 tỷ USD, tăng trưởng lần lượt 37,3% và 30,7%. Thặng dư thương mại Việt Nam với Mỹ trong giai đoạn này khoảng 64,8 tỷ USD, đứng thứ 4 sau Trung Quốc, Mexico và Iceland.
Với các kịch bản và tâm thế chuẩn bị từ trước, đại diện Việt Thắng Jean bày tỏ niềm tin dệt may "vẫn có thể cạnh tranh ở thị trường lớn nhất thế giới".
Tương tự, đại diện Vina T&T kỳ vọng năm nay xuất khẩu sang Mỹ của họ sẽ vượt mốc 100 triệu USD. "Đây là thời điểm chúng tôi tăng tốc, củng cố thị trường và tiếp tục đưa nông sản Việt đi xa hơn", ông nói.
Về dài hạn, trong bối cảnh cạnh tranh thương mại ngày càng khó lường, các chuyên gia nhận định doanh nghiệp Việt cần chuẩn bị kỹ về chiến lược, nguồn lực và năng lực cạnh tranh nhằm duy trì vị thế và phát triển bền vững.
Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn, giảng viên Trường Chính sách công và quản lý Fulbright Việt Nam, cho rằng doanh nghiệp phải chuyển từ tư duy "gia công", dễ bằng lòng với phân khúc hàng giá rẻ, tiêu chuẩn thấp, sang chủ động nâng cao giá trị gia tăng, đầu tư vào công nghệ, quản trị và đổi mới sản phẩm.
Trước hết, theo ông Tuấn, doanh nghiệp cần có chiến lược phát triển công nghiệp hỗ trợ bài bản hơn, xem đây là điều kiện tiên quyết để giảm phụ thuộc vào linh kiện nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc... đồng thời gia tăng tỷ lệ nội địa hóa. Họ cũng phải tăng thích ứng với các tiêu chuẩn quốc tế về môi trường, lao động, xuất xứ...
"Điều này giúp doanh nghiệp tránh được các vụ kiện phòng vệ thương mại, mở rộng khả năng tiếp cận những thị trường khắt khe hơn của EU hay Nhật Bản", ông phân tích, thêm rằng Việt Nam cần triển khai một chiến lược tổng thể, trọng tâm là nâng cấp năng lực nội tại của nền kinh tế và doanh nghiệp.
Thực tế, xu hướng tăng nội địa hóa chuỗi sản xuất và tìm thị trường nguyên liệu đầu vào từ đối tác khác cũng được nhiều doanh nghiệp chọn là giải pháp trong dài hạn để tăng năng lực cạnh tranh. Khoảng 50% nguyên liệu của Việt Thắng Jean đã nội địa hóa. Họ đặt mục tiêu tăng tỷ lệ này lên 85% trong 3 năm nữa.
Ông Nguyễn Xuân Phú, Chủ tịch Hội đồng quản trị Sunhouse, cho biết doanh nghiệp đã đầu tư mạnh vào hệ thống nhà máy, công nghệ và năng lực sản xuất. Họ tự chủ gần như toàn bộ quy trình sản xuất, từ vi mạch, khuôn mẫu đến lắp ráp sản phẩm. Sunhouse cũng hợp tác với hơn 100 đối tác OEM (sản xuất từ linh kiện đến sản phẩm hoàn chỉnh dựa trên thiết kế, tiêu chuẩn từ đối tác) trên toàn cầu, đặt mục tiêu xuất khẩu 3.000 tỷ đồng năm nay.
"Việt Nam đang có cơ hội vươn lên trong chuỗi cung ứng toàn cầu, nếu tận dụng tốt năng lực sản xuất và công nghệ", ông Phú nhận định.
Tuy nhiên, đại diện các doanh nghiệp này cũng chỉ ra hạn chế hiện nay là chi phí sản xuất tăng, trong khi chính sách hỗ trợ lĩnh vực công nghiệp chế biến còn yếu. Họ đề xuất cần có thêm ưu đãi về thuế, đất đai, tín dụng để tận dụng làn sóng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu.
"Một nhà máy kéo sợi hoặc dệt nhuộm mất vài năm để xây dựng và hoàn thiện quy trình. Nếu được hỗ trợ về vốn, thuế và thủ tục, ngành dệt may sẽ rút ngắn được lộ trình chuyển mình", ông Việt nói thêm.
Ở khía cạnh này, chuyên gia Đỗ Thiên Anh Tuấn cũng cho rằng Chính phủ cần có chiến lược khuyến khích doanh nghiệp nội vươn ra nước ngoài, mở rộng ảnh hưởng kinh tế thông qua sản xuất và đầu tư tại các thị trường có FTA với Việt Nam, học hỏi mô hình "Go global" đã thành công của Hàn Quốc, Thái Lan.
"Đây sẽ là những trụ cột then chốt để Việt Nam ứng phó hiệu quả với cạnh tranh thương mại, nâng tầm vị thế quốc gia trong dài hạn", ông nói thêm.
Thi Hà - Phương Dung - Thủy Trương