Cú bổ nhào khiến tiêm kích Mỹ tự bắn hạ chính mình năm 1956

Ngày 21/9/1956, tiêm kích F11F-1 Tiger số đuôi 138620 cất cánh từ cơ sở của công ty quốc phòng Grumman tại New York để thực hiện chuyến bay thử nghiệm trên Đại Tây Dương, cách bờ biển Long Island khoảng 30 km. Người điều khiển là Thomas Attridge Jr., phi công thử nghiệm 33 tuổi và từng có kinh nghiệm vận hành chiến đấu cơ F9F Panther.
Attridge có nhiệm vụ khai hỏa 4 khẩu pháo Colt Mk 12 cỡ nòng 20 mm, nhằm đánh giá khả năng hoạt động của chúng và ảnh hưởng đến tiêm kích Tiger khi xả đạn ở tốc độ siêu thanh.
Sau khi đạt độ cao 6.000 m, Attridge cho chiếc F11F-1 bổ nhào ở góc 20 độ và tăng tốc độ lên 1.240 km/h, nhanh hơn âm thanh. Khi đến độ cao 4.000 m, Attridge khai hỏa 4 khẩu pháo trong vòng 4 giây, sau đó bật chế độ tăng lực và tiếp tục chúi mũi bổ nhào.
Ở độ cao 2.100 m, chiếc Tiger khai hỏa lần hai để xả hết cơ số đạn mang theo và tiếp tục di chuyển với vận tốc siêu thanh.
Khoảng 11 giây sau, nắp kính buồng lái tiêm kích đột nhiên lõm vào trong, máy bay rung lắc và động cơ xuất hiện nhiều âm thanh lạ. Phi công thông báo cho đài chỉ huy về sự cố, cho biết cửa hút gió bên phải có lỗ thủng lớn, tốc độ vòng quay động cơ giảm xuống 78% và mất toàn bộ lực đẩy.
Attridge tin rằng tiêm kích đã đâm phải chim, nhanh chóng giảm ga và tìm cách lượn về hạ cánh khẩn cấp ở sân bay của Grumman cách đó 13 km. Sau khi bay được hơn 3 km, máy bay chỉ còn cách mặt đất khoảng 365 m và khó lòng trở về sân bay với công suất động cơ hiện tại. "Tôi thử tăng ga và động cơ lập tức xuất hiện những tiếng ồn dữ dội", Attridge nhớ lại.
Động cơ ngừng hoạt động sau đó không lâu, buộc phi công thu càng và áp dụng quy trình hạ cánh khẩn cấp bằng bụng xuống khu rừng cách sân bay khoảng 800 m. Máy bay trượt dài 90 m giữa đám cây cối, mất toàn bộ cánh phải và cánh đuôi ngang. Nhiên liệu rò rỉ tạo ra đám cháy lớn, khiến chiếc Tiger bị phá hủy hoàn toàn.
Attridge kịp phóng ghế thoát hiểm song vẫn bị thương nặng, gãy một chân và nứt ba đốt sống. Sau khi nhập viện để điều trị, anh đã hồi phục và tiếp tục công việc phi công thử nghiệm.
Kết quả điều tra cho thấy chiếc Tiger không đâm phải chim, mà trúng ba viên đạn 20 mm do chính nó bắn ra. Viên đầu tiên xuyên qua kính buồng lái, viên thứ hai phá thủng mũi máy bay, còn viên cuối cùng gây hư hại cửa hút gió bên phải, đánh trúng van điều khí và găm vào tầng nén đầu tiên của động cơ.
Các điều tra viên cho biết loạt đạn 20 mm có sơ tốc đầu nòng rất lớn, khoảng 3.675 km/h, cao hơn nhiều so với tốc độ của chiếc F11-F1. Tuy nhiên, đạn giảm tốc rất nhanh do lực cản không khí, trong khi máy bay lại tăng tốc do những cú bổ nhào và liên tục bật chế độ tăng lực.
Sau khi bay được 4-5 km, những viên đạn này có tốc độ ngang với máy bay và lao xuống phía dưới do trọng lực, vào đúng vị trí mà tiêm kích di chuyển sau khi khai hỏa.
Sự cố đánh dấu lần đầu một tiêm kích bắn rơi chính nó trong lịch sử hàng không thế giới. Các chiến đấu cơ trước đó không bay đủ nhanh để tình huống như vậy xảy ra.
Các nhà điều tra Mỹ đã rút ra hàng loạt bài học sau sự cố hy hữu này, dẫn đến những sửa đổi trong quy trình thử nghiệm vũ khí ở tốc độ cao. Giới chức Mỹ đã áp đặt quy định nghiêm ngặt về góc bổ nhào và điều kiện khai hỏa để tránh trường hợp phi cơ bay trúng loạt đạn của mình. Phi công tiêm kích cũng phải đổi hướng hoặc kéo mũi máy bay, tăng độ cao sau khi khai hỏa pháo.
F11F/F-11 Tiger là tiêm kích hạm siêu thanh một chỗ ngồi, được Grumman sản xuất trong giai đoạn 1954-1959 cho hải quân Mỹ. Mẫu phi cơ này có khối lượng nhẹ, khả năng cơ động và độ an toàn cao, yêu cầu bảo dưỡng thấp. Đây cũng là một trong những mẫu tiêm kích đầu tiên đạt tốc độ siêu thanh.
Dù vậy, nó lại xuất hiện cùng thời điểm với hai mẫu tiêm kích khác mạnh mẽ hơn là F-8U Crusader và F-4 Phantom II. Điều này khiến dòng Tiger bị lu mờ và ít được sử dụng trên thực tế, dù sở hữu thiết kế có hiệu suất cao.
Các phi đội F-11A ngừng hoạt động trên tàu sân bay từ năm 1961, chỉ 7 năm sau khi nguyên mẫu F11F-1 thực hiện chuyến bay đầu tiên. Chúng tiếp tục được sử dụng trong nhiệm vụ huấn luyện đến năm 1967, cũng như nằm trong biên chế đội biểu diễn Blue Angels của hải quân Mỹ giai đoạn 1957-1969.
Phạm Giang (Theo Eurasian Times)