Nhảy đến nội dung
 

Chàng kỹ sư và sáng chế 'bịt mắt' máy bay địch ở Trường Sơn - Báo VnExpress

Tháng 7/1965, chàng kỹ sư trẻ Phạm Gia Nghi vừa tốt nghiệp Đại học Bách Khoa Hà Nội nhận được "Lệnh gọi ra phục vụ tại ngũ" do Chủ tịch TP Hà Nội Trần Duy Hưng ký. Cùng ra trận với ông năm đó có 300 kỹ sư khác của Đại học Bách khoa Hà Nội và 300 kỹ sư, cử nhân của các trường Đại học Nông nghiệp I và Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Hoàn thành khóa đào tạo, thiếu úy Phạm Gia Nghi cùng 25 người thuộc "đại đội kỹ sư" được điều về Cục Quản lý xe (nay là Cục Xe máy - Vận tải, Tổng cục Hậu cần - Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng).

Năm 1966, tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn xuất hiện hàng trăm "tọa độ lửa" bởi sự đánh phá ác liệt của không quân Mỹ. Ban ngày, các đoàn xe dù đã ngụy trang kỹ vẫn lộ diện vì bụi đường. Chuyển sang chạy đêm, ánh đèn xe lại thành mục tiêu cho máy bay. Các loại đèn ngụy trang do nước ngoài chế tạo hay đèn gầm bộ đội tự chế từ ống bơ sữa đều có nhược điểm. Xe lội suối thì đèn hỏng, leo dốc ánh sáng hắt lên trời như tự chỉ điểm cho địch.

"Tổn thất vô cùng nặng nề. Có những đơn vị vận tải khi vào chiến trường chỉ còn lại một phần tư số xe", ông Phạm Gia Nghi, 85 tuổi, ở Thụy Khuê, Hà Nội kể.

Tháng 3/1966, Bộ Quốc phòng nhận được bức thư của một chiến sĩ lái xe thuộc Đoàn 559. Anh bị thương cụt cả hai chân. Trong thư, anh viết về nỗi đau thể xác nhưng quan trọng hơn cả là những mất mát của đồng đội và khẩn thiết đề nghị nghiên cứu một loại đèn phù hợp, tránh thương vong. Người lính này cũng tự tay phác thảo mẫu đèn không có chao phản xạ, dùng bóng nhỏ và có tấm che cụp xuống.

Bức tâm thư này được chuyển đến các lãnh đạo cao nhất của Tổng cục Hậu cần. Đầu tháng 7/1966, nhóm nghiên cứu đặc biệt mang bí số "C35" được thành lập, do kỹ sư Phạm Gia Nghi, 26 tuổi, làm chủ nhiệm với chỉ thị: Phải tạo loại đèn cần che mắt được máy bay địch nhưng phải đủ sáng cho lái xe an toàn, đảm bảo vận tải thông suốt.

Công trình đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Cục trưởng Cục Quản lý xe Vũ Văn Đôn, kỹ sư, Phó Trưởng Phòng Kỹ thuật Trần Văn Hải và Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện cùng Giáo sư, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Trần Đại Nghĩa.

Ông Nghi và nhóm nghiên cứu lao vào khảo sát tất cả các loại đèn ngụy trang hiện có. Ban ngày, họ cặm cụi bên bản vẽ. Ban đêm, trong một gara lợp tôn kín mít ở trong thành Hà Nội, họ đo đạc, thử nghiệm. Mọi giải pháp từ đèn của Liên Xô, các nước Đông Âu, đến mũ hồng ngoại của lính xe tăng đều được thử nghiệm nhưng không mang lại kết quả.

Công trình C35 tưởng chừng rơi vào bế tắc cho đến khi một thông tin quý giá từ chiến trường gửi về: Vào những đêm trăng rằm, lái xe không cần bật đèn vẫn chạy an toàn.

"Tôi nhận ra phải tìm mọi cách tạo ra dải sáng như trăng rằm trong tất cả các đêm", ông Nghi kể.

Sau ba tháng nghiên cứu, bản thiết kế hoàn chỉnh ra đời. Một chiếc đèn hình hộp bằng kim loại, nhỏ gọn, mặt trên có một mui chắn cong vát như mai rùa. Về nguyên lý, đèn sử dụng hệ thống quang học gồm chao phản xạ parabol và khe kính chứa các thấu kính nhỏ thẳng đứng dạng parabol, rộng 5 mm. Hệ thống này tạo ra các chùm tia sáng song song, cho một dải sáng xa 15-25 m, rộng 4 m, nhưng khi nhìn từ phía trước hay trên cao đều không thấy điểm phát sáng của đèn. Toàn bộ chiếc đèn được đặt trong một hộp kín có gioăng cao su chống nước và chống rung.

Thành quả của công trình mang bí số C35, được ông Nghi gọi là "Đèn ngụy trang ánh sáng dùng cho ôtô". Nhưng khi ra trận, những người lính lái xe thấy mui đèn giống mai rùa nên gọi ngắn gọn là "đèn rùa". Cái tên đã đi vào lịch sử, gắn liền với biệt danh "đèn rùa cứu mạng".

Cuối tháng 11/1966, hai chiếc đèn mẫu đầu tiên ra đời, sẵn sàng cho những cuộc thử nghiệm sinh tử.

Lần thử nghiệm đầu tiên diễn ra tại vùng đồi núi Ba Vì (Hà Nội). Mười chiếc đèn được lắp lên 10 xe ôtô, chạy thành đoàn trong đêm tối. Trên trời, một chiếc máy bay quân sự lượn vòng, chở theo đoàn khảo sát cấp cao do thiếu tướng Trần Đại Nghĩa dẫn đầu.

Bên trong máy bay, không khí căng thẳng. Mọi cặp mắt đổ dồn xuống khoảng không đen kịt bên dưới, cố gắng tìm kiếm một dấu hiệu của ánh sáng. Hai giờ trôi qua trong im lặng. Dưới mặt đất, đoàn xe vẫn âm thầm vượt qua những sườn dốc, con đèo hiểm trở. Từ bộ đàm, giọng phi công vang lên: "Báo cáo, chỉ quan sát thấy đèn dầu trong lán trại. Hoàn toàn không phát hiện ánh sáng từ đoàn xe mục tiêu!".

"Dưới mặt đất, khi nhận tin, tôi và đồng đội trong xe đã ôm chầm lấy nhau hét lớn: 'Thành công rồi! Đã đáp ứng được tiếng gọi từ Trường Sơn rồi!'", ông Nghi nhớ lại khoảnh khắc vỡ òa.

Thành công ở Ba Vì là một cú hích lớn, nhưng thực tế chiến trường là bài kiểm tra cuối cùng. "Đèn rùa" phải được kiểm chứng tại các "tọa độ lửa".

"Là người sáng chế, tôi phải có mặt để trực tiếp kiểm nghiệm 'đứa con' của mình trong điều kiện khốc liệt nhất", kỹ sư Nghi giải thích về quyết định đi chiến trường.

Những ngày giáp Tết Đinh Mùi 1967, chàng kỹ sư trẻ Phạm Gia Nghi dẫn đầu một đoàn khảo sát gồm 6 sĩ quan, kỹ sư mang theo 10 chiếc đèn vượt đường 15, đường 20 tiến vào Trường Sơn.

Ban đêm, đoàn xe tắt hết đèn pha, chỉ di chuyển nhờ "đèn rùa". Trên đầu, tiếng gầm rú của máy bay địch không ngớt. Nhiều lần, cả đoàn nín thở khi máy bay địch bổ nhào, thả pháo sáng. Nhưng đoàn xe vẫn như những bóng ma, lầm lũi tiến về phía trước. Các tổ chốt dưới mặt đất liên tục báo tọa độ xe chạy về Bộ Tư lệnh Trường Sơn, nhưng phía địch hoàn toàn không phản ứng.

"Đèn rùa" đã thực sự bịt mắt được kẻ thù.

Ngay sau cuộc thử nghiệm thành công, lệnh sản xuất đèn rùa hàng loạt được ban hành. Một cuộc tổng động viên các nhà máy diễn ra. Nhà máy Cơ khí Hà Nội làm thân đèn, Rạng Đông sản xuất bóng đèn, Cao su Sao Vàng làm gioăng, nhà máy Z157 và Z117 của quân đội đảm nhận khâu tổng lắp ráp.

Nhờ sáng chế của những nhà khoa học mặc áo lính, hàng vạn chuyến xe chở vũ khí, lương thực đã an toàn vào Nam, hạn chế tối đa thương vong, góp phần quyết định vào thắng lợi trên tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn.

Do tính bí mật, đến năm 2005, công trình nghiên cứu thiết kế chế tạo Đèn Rùa của kỹ sư Phạm Gia Nghi mới được tặng giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ.

Ngoài "đèn rùa", kỹ sư Phạm Gia Nghi còn có nhiều đóng góp quan trọng khác trong kháng chiến chống Mỹ như nghiên cứu thiết kế, chế tạo xe ôtô bọc thép BTR-40 phá bom từ trường và ca nô phá bom từ trường (1968); Nghiên cứu thiết kế chế tạo xe môtô Ấp Bắc dùng cho bộ đội thông tin liên lạc (1970-1971); Nghiên cứu thiết kế chế tạo xe ôtô Trường Sơn (1972-1975). Đặc biệt, công trình "Nghiên cứu thiết kế chế tạo, đồng hóa các loại phụ tùng đảm bảo cho xe máy quân sự thời kỳ 1965-1990" đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ năm 2000.

"Tôi sáng tạo không phải để nhận giải thưởng hay ghi công, mà chỉ muốn góp sức mình, giảm tối đa hy sinh cho đồng đội", ông tâm sự.

Quỳnh Nguyễn

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: daisanjsc@gmail.com

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn