Bông Bạch Tuyết và hành trình hồi sinh ngoạn mục của doanh nghiệp 65 tuổi - Báo VnExpress Kinh doanh

Trong suốt 40 năm sau khi thành lập, thương hiệu này gần như phát triển liên tục, vượt mọi biến động của thời cuộc. Ở thập niên 80-90, Bông Bạch Tuyết được xem như "tượng đài" trong ngành y tế tiêu dùng khi gần như nắm độc quyền thị trường cả nước. Họ có vị thế là cơ sở sản xuất bông y tế lớn nhất và một trong số ít nhà máy đầu tiên ở miền Nam sản xuất đạt chuẩn, áp dụng công nghệ tẩy trắng bông bằng oxy hóa không độc hại, giữ được độ mềm và an toàn với da. Sản phẩm của công ty còn được xuất khẩu sang Đông Âu, Liên Xô cũ và một số nước Đông Nam Á.
Bông Bạch Tuyết, như tên gọi của nó, có chủ lực là bông gòn y tế, băng gạc cá nhân và gạc dùng trong y tế. Họ là nhà cung cấp bông cho hàng loạt bệnh viện tuyến tỉnh và trung ương, chiếm thị phần lớn trong các nhà thuốc, thậm chí cả chợ và các điểm bán lẻ khắp mọi miền.
Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, Bông Bạch Tuyết vẫn tiến hành cổ phần hóa và có nguồn tiền dồi dào. Báo cáo cổ phần hóa cho thấy doanh nghiệp lúc đó có tài sản hơn 15 tỷ đồng (giá trị ghi sổ), phần lớn là nhà xưởng, máy móc, đất đai ở vị trí thuận lợi tại TP HCM. Tổng tài sản này khá lớn so với mặt bằng doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ đầu Đổi mới. Để dễ hình dung có thể so sánh tổng tài sản ghi sổ của Dệt may Gia Định năm 2000 khoảng 12-14 tỷ đồng, tương đương Bông Bạch Tuyết dù quy mô lao động lớn gấp đôi. Nhờ nguồn tiền dồi dào, Bông Bạch Tuyết mạnh dạn nhập khẩu lượng lớn bông nguyên liệu, đủ sản xuất cho cả năm và chiếm lĩnh thêm thị trường.
Ông Nguyễn Khánh Linh nói uy tín và chất lượng là giá trị cốt lõi của Bông Bạch Tuyết từ khi mới sáng lập. Sản phẩm của họ là vật tư tiêu hao y tế, đòi hỏi người làm phải tâm huyết, chăm chút từng khâu, nếu không sẽ ảnh hưởng ngay đến sức khỏe người sử dụng. Giai đoạn quốc hữu hóa sau 1975, công ty là một trong những doanh nghiệp của Nhà nước kinh doanh tốt, đạt nhiều giải thưởng lớn. Với việc được bao tiêu đầu ra bởi các bệnh viện cấp tỉnh tới trung ương, doanh thu duy trì rất ổn định. Bông Bạch Tuyết cũng sớm niêm yết trên thị trường chứng khoán năm 2004, là cố phiếu thứ 23 điểm danh trên sàn HoSE.
Đang trên đỉnh cao mảng bông y tế, công ty mở rộng sản xuất sang băng vệ sinh phụ nữ. Thời gian đầu, thương hiệu này chiếm được 30% thị phần cả nước, mảng kinh doanh mới cũng góp thêm lợi nhuận cho công ty.
Thấy đang trên đà phát triển mạnh, năm 1996, ban lãnh đạo công ty nhập khẩu dây chuyền sản xuất của Nhật, được coi là hiện đại nhất thời điểm đó. Tốn kém số tiền đầu tư lớn nhưng doanh số mang về lại không tăng trưởng nhiều. Đến đầu năm 2000, họ tiếp tục đầu tư dây chuyền sản xuất bông y tế, băng vệ sinh công nghệ châu Âu giá gần 100 tỷ đồng với kỳ vọng thu hồi vốn trong 5 năm.
Tuy nhiên kết quả cũng chẳng khả quan hơn. Chỉ tính giai đoạn sau khi công bố thông tin, Bông Bạch Tuyết lãi nhỏ giọt, có năm còn thua lỗ. Đến cuối năm 2005 - thời điểm được kỳ vọng thu hồi vốn 100 tỷ - công ty có khoản lỗ lũy kế hơn 1,4 tỷ đồng. Đến 2008, mức lỗ lũy kế đã dâng lên tới 28,4 tỷ đồng.
Giai đoạn này, hàng tồn kho của công ty thường xuyên duy trì trên chục tỷ mỗi năm, tương đương khoảng một phần tư doanh thu. Tỷ lệ lớn trong đó là hàng tồn kho kém phẩm chất chờ thanh lý và sản phẩm dở dang, chậm luân chuyển. Tổng nợ phải trả cũng duy trì vài chục tỷ đồng mỗi năm, riêng năm 2008, nợ phải trả đạt đỉnh hơn 55 tỷ, vượt vốn chủ sở hữu. Trong khi đó, doanh nghiệp này đã lỗ hai năm liên tiếp.
Đến năm 2009, tức sau 5 năm lên sàn, Bông Bạch Tuyết phải hủy niêm yết vì hoạt động kinh doanh lao dốc, cổ đông thường xuyên xảy ra xung đột, giá nguyên vật liệu leo thang, hàng tồn kho chất đống... Công ty mất năng lực thanh toán nợ nên tài sản thế chấp bị cơ quan thi hành án kê biên, phát mãi và đấu giá. Điều này khiến nhiều khách hàng lớn là bệnh viện, đại lý, nhà phân phối ngần ngại hợp tác tiếp. Sản phẩm của công ty vì thế cũng dần vắng bóng trên thị trường.
Nhìn nhận vấn đề này, ông Nguyễn Khánh Linh cho rằng kế hoạch đầu tư máy móc thiết bị trước đây của Bông Bạch Tuyết là việc "xài sang", trong khi đầu ra của thị trường không đáp ứng được. Điều này có thể là do khâu nghiên cứu thị trường thực hiện chưa kỹ.
Ngoài ra, theo ông Linh, máy móc hiện đại nhưng quy trình quản lý, kiểm soát chất lượng vẫn thủ công, dẫn đến chất lượng không đồng đều. Thêm vào đó, đầu những năm 2000, thị trường xuất hiện nhiều tên tuổi mới, dẫn đầu xu hướng băng vệ sinh mỏng, mềm và có cánh. Sản phẩm của Bông Bạch Tuyết lại chọn theo mẫu dày và không cánh, bao bì lỗi thời, thiết kế đơn điệu nên không được ưa chuộng.
Trong khi các thương hiệu nước ngoài đẩy mạnh tiếp thị và quảng cáo, doanh nghiệp nội địa này tự khu biệt mình gắn với hình ảnh bệnh viện, dần trở nên "già cỗi" với người tiêu dùng. Sau khi lên sàn, công ty cũng xảy ra mâu thuẫn cổ đông, đặc biệt giữa nhóm nhà nước và tư nhân. Sự bất đồng trong định hướng chiến lược khiến công ty không thể đưa ra quyết định đầu tư, cải tiến kịp thời. Từ đó, công tác bán hàng không đủ bù lại chi phí đầu tư, gây gánh nặng nợ cho công ty.
Theo các chuyên gia trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp, Bông Bạch Tuyết là một ví dụ điển hình cho tình trạng "doanh nghiệp nhà nước gặp khó khi bước ra cơ chế thị trường, sau cổ phần hóa". Tức doanh nghiệp này không có sự chuẩn bị về năng lực quản trị, mô hình tài chính và chiến lược cạnh tranh, nên rất dễ rơi vào khủng hoảng .