50 năm thơ Việt phát triển mạnh mẽ ở TP.HCM

Điều kiện địa lý và bối cảnh lịch sử đặc thù của TP.HCM đã trở thành chất liệu được phản ánh sâu sắc, phong phú trong văn học nghệ thuật, mà thi ca là một trong những lĩnh vực tiên phong.
![]() |
Nhà thơ Phan Hoàng là Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa X (2020-2025), Giám đốc - Tổng Biên tập Vanvn.vn. Ảnh: Hội Nhà văn Việt Nam. |
Với chủ đề "Thành tựu cơ bản của văn học Việt Nam sau năm 1975 - Diện mạo, khuynh hướng và thể loại", hội thảo Tổng kết Văn học Việt Nam sau năm 1975 của Hội Nhà văn Việt Nam đã diễn ra sáng 16/9. Nhà thơ Phan Hoàng có tham luận về tình hình sáng tác thơ ở TP.HCM trong giai đoạn từ sau 1975 đến nay.
Do đặc thù về địa lý và lịch sử, hoạt động sáng tạo thi ca 50 năm qua (1975-2025) của Sài Gòn - TP.HCM có nhiều nét khác biệt so với những tỉnh thành khác.
[...]
Bối cảnh lịch sử khác biệt trong từng giai đoạn 50 năm qua của TP.HCM đã trở thành chất liệu được phản ánh sâu sắc, phong phú trong văn học nghệ thuật, mà thi ca là một trong những lĩnh vực tiên phong.
Lực lượng sáng tác đa dạng
Không ở đâu trên đất nước hình chữ S có lực lượng sáng tác văn học đa dạng như TP.HCM sau ngày hòa bình 30/4/1975. Có những người từ chiến khu hay tập kết miền Bắc trở về. Có những người sinh trưởng hoặc đến sống, làm việc, hoạt động tại Sài Gòn từ trước năm 1975. Và đông đảo nhất là những người trưởng thành hoặc chào đời sau ngày Tổ quốc thống nhất đã hội tụ về đây học tập, làm việc, sáng tác và cống hiến.
Riêng đối với thơ, đầu tiên phải kể đến thế hệ trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã từ chiến khu hay tập kết miền Bắc trở về Sài Gòn - TP.HCM. Tiêu biểu như: Chế Lan Viên, Thu Bồn, Hoài Vũ, Lê Giang, Thanh Giang, Chim Trắng, Nguyễn Duy, Hoài Anh, Văn Lê, Trần Mạnh Hảo, Quang Chuyền, Nguyễn Thái Sơn, Trần Nhật Thu, Lê Điệp, Thái Thăng Long, Dương Trọng Dật, PrekiMalamak, Nguyễn Văn Hiếu, Nguyễn Chí Hiếu, Vũ Ân Thy, Lam Giang, Lệ Bình, Đặng Nguyệt Anh, Lương Minh Cừ, Trần Thế Tuyển,… và các nhà thơ như Giang Nam, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lâm Thị Mỹ Dạ cũng có một thời gian ngắn gắn bó với thành phố này.
Từ phong trào đấu tranh sinh viên - học sinh yêu nước ở Sài Gòn trước năm 1975 đã sản sinh nhiều nhà thơ như Phan Duy Nhân, Triệu Từ Truyền, Miên Đức Thắng, Hà Thạch Hãn, Tần Hoài Dạ Vũ, Trương Thìn, Vũ Đức Sao Biển, Trần Phá Nhạc, Xuân Trường,… Đồng thời, có những nhà thơ từng sống, làm việc hoặc hoạt động bí mật tại Sài Gòn trước năm 1975 đã tiếp tục cầm bút sau ngày hòa bình như Thẩm Thệ Hà, Bùi Giáng, Kiên Giang, Tường Linh, Phạm Thiên Thư, Kim Tuấn, Hoàng Trúc Ly, Hoàng Ngọc Biên, Cung Trầm Tưởng, Tô Kiều Ngân, Cao Huy Khanh, Thành Tôn, Hoàng Hương Trang, Lê Thị Ý, Phan Nhự Thức, Thanh Việt Thanh, Mường Mán, Nguyễn Đạt, Nguyễn Khuê, Nhật Chiêu, Thiên Hà, Phù Hư, Hoàng Lộc, Từ Kế Tường, Phạm Thanh Chương, Mai Trinh Đỗ Thị,…
Đông đảo nhất là thế hệ nhà thơ trưởng thành mấy thập niên sau ngày đất nước hoà bình, thống nhất. Có những nhà thơ tham gia chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, phía Bắc hoặc lực lượng Thanh niên xung phong, như Phạm Sỹ Sáu, Nguyễn Nhật Ánh, Bùi Chí Vinh, Đỗ Trung Quân, Cao Vũ Huy Miên, Lê Minh Quốc, Nguyễn Vũ Quỳnh, Trần Trí Thông, Nguyễn Thành Nhân, Lương Hữu Quang,... Và những nhà thơ từ các tỉnh thành về đây học tập, làm việc sau năm 1975 như Nguyễn Vũ Tiềm, Hoàng Hưng, Đoàn Vy, Lệ Bình, Nguyễn Thái Dương, Trần Hữu Dũng, Đoàn Vị Thượng, Phạm Thị Ngọc Liên, Lê Thị Kim, Nguyễn Quốc Chánh, Thảo Phương, Lê Tú Lệ, Khánh Chi, Hồ Thi Ca, Vũ Trọng Quang, Trần Quốc Toàn, Cao Xuân Sơn, Trần Thị Khánh Hội, Trương Nam Hương, Lương Định, Inrasara, Thanh Nguyên, Trầm Hương, Thu Nguyệt, Nguyễn Thị Ánh Huỳnh, Tôn Nữ Thu Thuỷ, Nguyễn Hải Thảo, Nguyễn Trà Giang, Phan Ngọc Thường Đoan, Phan Thị Nguyệt Hồng, Ngọc Khương, Lâm Xuân Thi, Bùi Nguyễn Trường Kiên, Hà Thiên Sơn, Nguyễn Công Bình, Nhật Quỳnh, Bình Địa Mộc, Nguyễn Thị Thanh Long, Hoàng Hải Phương,… Đây là đội ngũ với bút lực rất mạnh mẽ, chủ lực quan trọng trên thi đàn TP Hồ Chí Minh sau năm 1975.
Tiếp nối các thế hệ đi trước, từ cuối thập niên 1990 cho đến nay, thành phố không ngừng xuất hiện những cây bút trẻ tài năng, có người nhanh chóng khẳng định bằng những tác phẩm mới được bạn đọc nồng nhiệt đón nhận và được vinh danh bằng các giải thưởng. Giống như các thế hệ đàn anh, ngoài một số ít sinh ra tại thành phố, còn phần lớn là từ các tỉnh thành khác, chủ yếu từ miền Trung và miền Bắc về đây học tập và lập nghiệp. Hiện nay có gần một trăm cây bút tuổi đời trên dưới 40 tuổi đang sáng tác rất mạnh mẽ, tạo nên những hiện tượng về đổi mới thi pháp và cả về xuất bản sách, tiêu biểu như Ly Hoàng Ly, Trần Lê Sơn Ý, Trương Gia Hoà, Nguyễn Hữu Huy Nhựt, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Đàm Hà Phú, Lý Đợi, Lê Thiếu Nhơn, Nguyễn Phong Việt, Nguyễn Thiên Ngân, Trần Lê Khánh, Hoa Níp, Trần Huy Minh Phương, Phùng Hiệu, Trần Mai Hường, Phạm Phương Lan, Minh Đan, Phan Phương Loan, Doãn Thụy Như, Doãn Minh Trịnh, Hồ Khánh Vân, Trần Võ Thành Văn, Nồng Nàn Phố, Hồ Xuân Đà, Khang Quốc Ngọc, Huỳnh Khang, Mai Xuân Thắng, Nguyễn Trần Khải Duy, Trương Mỹ Ngọc, Chung Bảo Ngân, Trần Văn Thiên, Vĩ Hạ, Sang Trương, Lương Phan Huy Bảo,…
Các thế hệ nhà thơ về sau có điều kiện hơn những thế hệ trước khi được sống trong hòa bình, dinh dưỡng thể chất tốt, lại có điều kiện học hành, tiếp nhận nhiều nguồn trí thức, thông tin, nhất là từ khi có mạng Internet. Nhờ đó, thơ của họ cũng dần có những khác biệt về tư duy, tri nhận, phương thức trình hiện,…
Khuynh hướng sáng tác đa sắc, đa thanh, đa giọng điệu
Sài Gòn - TP.HCM là mảnh đất “hiệp chủng quốc” thu hút nhân tài khắp cả nước. Người Sài Gòn các thế hệ cũng vốn xuất thân từ nhiều nơi trên cả nước hội tụ về học tập, sinh sống, lập nghiệp. Đội ngũ các nhà thơ cũng vậy. Nhờ đó, thi ca TP.HCM vừa đa sắc, đa thanh, đa giọng điệu lại vừa hấp thu truyền thống đất này đã trở nên năng động, uyển chuyển trong đổi mới nghệ thuật thi pháp, khuynh hướng sáng tác, phương thức thể loại, diễn ngôn chuyển tải.
Về khuynh hướng đề tài, lịch sử khẩn hoang, đấu tranh giữ đất giữ nước vẫn là một trong những nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ TP.HCM 50 năm qua. Đó là lòng biết ơn, trân trọng những giá trị tiền nhân để lại. Đó là lòng yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm. Đó là nỗi tiếc thương những mất mát hy sinh và niềm tự hào về sự xả thân vì đại nghĩa: “Khi lịch sử gồng mình trước những cơn bão lớn/ Mọi con đường đất nước đều thẳng hướng biên cương”. Và cả tinh thần hòa giải sau chiến tranh…
Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu trưởng thành từ cuộc Chiến tranh Biên giới Tây Nam từng nói: “Khi bước ra khỏi cuộc chiến tranh giữ nước từ xa, chúng tôi nghĩ về nó và làm nó sống lại trên những trang viết của mình với sự chân thật cần thiết phải có. Bởi đó là món nợ với những mất mát lớn lao mà đồng đội đã vĩnh viễn ra đi không có ngày về hoặc trở về với những thương tật, là gánh nặng giữa đời thường. Tôi viết bởi tôi không muốn thế hệ lính của mình bị lãng quên trong cuộc chiến”. Và như trong bài Gửi bạn bè làm xong nghĩa vụ từ chiến trường ông đã viết:
“Mai mày về đi dưới phố cây xanh
Nếu gặp nắng đừng đưa tay che vội
Hãy nhớ tụi tao trầm mình trong nắng đội
Khát dòng sông như khát thuở thanh bình
Phố lên đèn, ánh điện sáng lung linh
Có nhớ tụi tao bên này đêm - bóng - tối
Mấy tháng ròng giọt dầu hôi không biết tới
Nên rất trẻ thơ muốn trăng sáng bốn tuần”.
Khoảng cách không xa từ chiến trường lửa đạn đến hậu phương hòa bình, từ cái chết đang rình rập đến sự sống bình thường, chính là cái khốc liệt của một giai đoạn lịch sử và những người trực tiếp cầm súng.
Bên cạnh sự hồi tưởng, nhìn nhận, tái hiện ký ức lịch sử và chiến tranh thì hiện thực đời sống đủ mọi cung bậc đang diễn ra trong lòng thành phố cũng là một khuynh hướng sáng tác. Không còn ngợi ca một chiều, thơ đồng hành chia sẻ những khó khăn của người lao động lam lũ từ đường phố đến xưởng máy, xí nghiệp, công trường, nông trường. Thơ phản kháng trước những bất công, cửa quyền, tham ô, nhũng nhiễu, lãng phí. Thơ phản biện những điều bất thường, phản cảm của đời sống xã hội: “Thành phố bây giờ lộng lẫy phấn son/ Cô gái nào cũng tựa từa ca sĩ/ Dáng dấp thị trường/ Nụ cười tiếp thị/ May mắn tôi còn có em bên”.
Nhà thơ Bùi Chí Vinh trong bài Buồn gì đâu trực cảm táo tợn tê tái:
“Uống ly cà phê trong quán cóc
Ngẩng đầu lên và ngó ra đường
Các em thất tiết nhiều hơn trước
Bộ ngực nào cũng nhuốm phong sương”.
Hay trong bài Thơ xích lô của ông mang tính giễu nhại mà đau đớn trước hiện thực phũ phàng:
““Ba đồng một cuốc” mại dô!
Có con ngựa đực vừa ho vừa gào
Ta thồ ngang động hoa đào
Thấy dăm kỹ nữ trắng phau trổ nghề
Thồ ngang đống rác thúi ghê
Thấy bầy tiểu tử chửi thề giành moi
Thồ ngang khách sạn em ơi
Chó ngồi ăn nhậu còn người ăn xin”.
Ngôn ngữ trần trụi bụi bặm. Cái nhìn chơn chất đời thường. Phản ánh cái tiêu cực để hướng đến sự tích cực, với mong muốn xã hội tốt đẹp hơn. Và từ cái ta chung trước đây, thơ dần đi vào cái tôi riêng, đào sâu bản thể, tâm thức để khẳng định những giá trị cá nhân trước cộng đồng. Khuynh hướng trữ tình lãng mạn tình yêu đôi lứa chiếm sóng phần lớn đời sống sáng tác thi ca.
Chẳng những về tinh thần, thơ còn thể hiện ngôn ngữ cơ thể với ý tưởng vượt thoát, tái hiện cái đẹp ẩn ức, thầm kín. Đồng thời, thơ còn đi vào chiều sâu tâm linh với ý niệm khám phá một thế giới mơ hồ có thể hiện tồn đồng hành cùng thế giới chúng ta đang sống. Điều đó cũng nằm trong ý thức khám phá cái tôi cá nhân của các nhà thơ.
Về khuynh hướng nghệ thuật, thơ TP.HCM 50 năm qua hòa trong dòng chảy thơ Việt, vừa sáng tạo nâng tầm thơ truyền thống, vừa nỗ lực cách tân. Phương thức diễn ngôn từ điệu ngâm chuyển dần sang điệu nói, từ giọng cao đồng ca chuyển sang giọng trầm độc thoại.
Thơ TP.HCM tiếp tục sử dụng các thể thơ truyền thống như trường ca, lục bát, tứ tuyệt, ngũ ngôn, thất ngôn, tự do,… Không nở rộ trường ca như ở miền Bắc hay miền Trung, nhưng thơ TP.HCM cũng có những trường ca đáng ghi nhận sau năm 1975.
Nói đến cách tân thơ, theo tôi ngoài yếu tố ngôn ngữ thì điều quan trọng nhất là vấn đề thể loại. Từ phong trào Thơ Mới đầu thế kỷ XX đến nay đã có nhiều nhà thơ như Nguyễn Vỹ, Trần Dần, Lê Đạt, Bằng Việt, Trần Quang Quý, Nhật Chiêu,… nỗ lực đi tìm một thể loại mới cho thơ Việt. Gần đây, tại TP.HCM đã xuất hiện thể thơ 1-2-3 đang cộng hưởng, lan tỏa mạnh mẽ, tạo nguồn cảm hứng sáng tác cho hàng trăm cây bút từ Nam chí Bắc, nhất là đội ngũ giáo viên phổ thông trung học mong muốn tìm cái mới để sáng tác và khuyến khích tư duy sáng tạo cho học sinh.
Về niêm luật, Thơ 1-2-3 mỗi bài thơ là chỉnh thể độc lập gồm 3 đoạn, 6 câu.
Đoạn 1 chỉ có 1 câu gồm tối đa 11 chữ hoặc ít hơn, đồng thời cũng là tên bài thơ, nhằm tránh trùng lắp tên những bài thơ đã xuất hiện.
Đoạn 2 có 2 câu, với mỗi câu tối đa 12 chữ hoặc ít hơn. Còn đoạn 3 có 3 câu, với mỗi câu tối đa 13 chữ hoặc ít hơn. Chữ càng tinh lọc càng đa nghĩa càng giá trị.
Đề tài Thơ 1-2-3 hoàn toàn tự do, nội dung chủ yếu đi từ ngoại cảnh dần vào chiều sâu nội tâm tác giả muốn biểu hiện.
Đặc biệt khuyến khích tính độc lập từng câu thơ trong mối tương quan toàn bài, đồng thời giữa câu 1 và câu 6 có tính hô ứng để nội dung bài thơ chặt chẽ, thống nhất trong một không gian thẩm mỹ riêng biệt.
Không khuyến khích biến thể các loại thơ truyền thống: lục bát, song thất lục bát, tứ tuyệt, ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn… thành Thơ 1-2-3.
Nối tiếp tinh thần cách tân của đời sống thi ca Sài Gòn - TP.HCM từ trong lịch sử của phong trào Thơ Mới hay nhóm Sáng Tạo trước năm 1975, những người khởi xướng và ủng hộ thơ 1-2-3 đã và đang nỗ lực sáng tác, góp phần làm phong phú thêm nền thơ Việt hiện đại.
Trong 50 năm qua, có lúc thơ bị xem nhẹ, khi người làm thơ nhiều mà người đọc lại xa lánh, thì chính TP.HCM là nơi có đời sống thi ca luôn chuyển động với những bất ngờ, tạo nên những hiện tượng xuất bản thơ kỷ lục với con số lên hàng chục nghìn bản một ấn phẩm như thơ Nguyễn Phong Việt hay Nguyễn Thiên Ngân, cũng như sáng tạo thể thơ mới 1-2-3 có sức cộng hưởng hiếm có. Các nhà thơ đã năng động tận dụng mạng internet để tiếp thị, quảng bá nhưng điều quan trọng theo tôi là thơ của các bạn đã thể hiện được tiếng lòng của giới trẻ thế hệ mình. Có thể chưa đạt được tầm cao nghệ thuật, nhưng sự thành công ấy là bệ phóng quan trọng cho hành trình thơ bền bỉ cho những bạn thơ, nhất là các bạn thơ trẻ với nhiều hứa hẹn ở tương lai.
Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức - Znews
Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức - Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: books@znews.vn. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.
Trân trọng.