Nhảy đến nội dung
 

50 năm đi tìm vết mổ 1,5cm tái sinh hàng nghìn trẻ em mang “án tử”

(Dân trí) - Từ chỗ biết bệnh mà bác sĩ bất lực vì thiếu trang thiết bị, giờ đây, các bác sĩ Việt có thể mổ cho trẻ nặng chỉ vài cân, bằng kỹ thuật ngang tầm thế giới.

Cậu bé chỉ nặng hơn 2kg nằm yên dưới đèn mổ. Màn hình hiện lên hình ảnh quả tim bé xíu, co bóp nhịp nhàng trong lồng ngực mỏng manh. 4 lỗ nhỏ trên da là đủ để bác sĩ đưa dụng cụ nội soi vào, sửa lại vách tim cho bệnh nhi sơ sinh.

Nhìn những đứa trẻ mắc dị tật tim bẩm sinh được viết tiếp cuộc đời mới bằng phẫu thuật nội soi, GS.TS Lê Ngọc Thành lặng đi.

Trong tâm thức của vị Chủ tịch Hội đồng Giáo sư ngành Y học - Hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược (Đại học Quốc gia) - nguyên giám đốc Bệnh viện E,  vẫn có những nốt lặng không nói thành lời. Đó là cảm giác bất lực. Ông từng thấy những trẻ bị tim bẩm sinh mà chỉ biết đứng nhìn, tiếc nuối.

"Không phải vì thiếu hiểu biết. Không phải vì chưa tìm ra phương pháp. Mà bởi chúng ta không có dụng cụ, không có máy móc, không có gì trong tay để làm", GS Thành nói.

“Bác sĩ biết bệnh, biết cách chữa, mà không làm được gì. Lúc đó chỉ biết lặng im, ứa nước mắt vì thấy bệnh nhân mà không thể cứu. Cảm giác bất lực ấy ám ảnh tôi rất lâu”, ông bùi ngùi.

Từ “tay không bắt giặc” trong những năm đầu của ngành phẫu thuật tim mạch Việt Nam, ông và các đồng nghiệp đã dựng nên một nền tảng vững chắc để y học hiện đại có thể cứu sống hàng nghìn bệnh nhi. Trong số đó, có những bé chỉ vừa lọt lòng.

Tháng 9 năm 2005, ca mổ tim đầu tiên cho trẻ dưới 10kg tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức được thực hiện. Người trực tiếp phẫu thuật là GS.TS Lê Ngọc Thành.

Đứa trẻ từng bị coi là “mang án tử” đã sống. Bên ngoài phòng mổ, người mẹ bật khóc vì vui mừng: “Không ngờ con em được mổ. Không ngờ nó được sống!”.

Đó là cột mốc quan trọng mà theo GS Thành, “mở ra một chương hoàn toàn mới”.

Trên thực tế, mổ tim ở nước ta được thực hiện ngay trong những năm tháng chiến tranh gian khó. Năm 1958, cố GS Tôn Thất Tùng là người thực hiện ca mổ tim đầu tiên tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức - cái nôi của ngoại khoa của Việt Nam.

GS Thành và các đồng nghiệp được gọi là bác sĩ phẫu thuật tim thứ ba tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Ông cũng có 27 năm gắn bó tại đây, trước khi chuyển công tác tới Bệnh viện E.

Trong tâm khảm của vị bác sĩ, thế hệ đi trước là những người thầy lỗi lạc, sở hữu khối óc, đôi bàn tay vàng và ý chí thép để vượt mọi gian khó thực hiện tâm nguyện cứu người.

Tuy nhiên, mổ tim là một kỹ thuật phức tạp, phụ thuộc rất nhiều về kinh tế, kỹ thuật, thiết bị. Do đó, trong suốt 4 thập kỷ từ ca mổ đầu tiên, mổ tim ở nước ta gặp nhiều khó khăn để phát triển.

Trong cuộc trò chuyện với chúng tôi, người bác sĩ tóc đã bạc nhiều lần lặng đi khi nhớ về giai đoạn để lại nhiều tiếc nuối và trăn trở này.

Ba lần tu nghiệp tại Pháp - vào các năm 1989, 1993 và 1997 - GS Lê Ngọc Thành mang trong mình kiến thức mổ tim hiện đại, khát vọng cứu người và niềm tin rằng sẽ làm được điều gì đó cho những bệnh nhân ở quê hương. Nhưng cả ba lần trở về, ông đều đối diện với một thực tế phũ phàng: không thể mổ, dù biết chính xác cần làm gì.

“Năm 1997, ngay sau lần học thứ ba trở về, chúng tôi tiếp nhận một phụ nữ khoảng 30 tuổi, suy tim, hở van hai lá do đứt dây chằng. Nếu là bây giờ, đó chỉ là ca mổ nội soi đơn giản. Nhưng khi ấy, tôi chỉ có thể đứng nhìn.

Người phụ nữ ấy ra đi ngay trước mắt tôi. Tôi biết phải làm gì để cứu chị, nhưng tôi không thể làm được gì cả. Cảm giác ấy cứ day dứt mãi”, GS Thành nhớ lại.

Hình ảnh khiến ông day dứt nhất là những em bé nhẹ cân nằm thoi thóp chờ chết vì bệnh tim bẩm sinh.

“Nhìn bệnh nhi tôi ứa nước mắt, thấy bệnh, thấy mình có thể chữa được nhưng "lực bất tòng tâm" vì không có phương tiện”, GS Thành kể, chậm rãi như thể từng hình ảnh vẫn còn in rõ trong trí nhớ.

Sau năm 1978, người Pháp bắt đầu quay trở lại hỗ trợ Việt Nam phát triển kỹ thuật mổ tim. Tuy nhiên, trong suốt hai thập niên tiếp theo, từ 1978 đến 1998, các ca phẫu thuật tim tại Việt Nam gần như chỉ dựa vào viện trợ, không thể chủ động mua thiết bị.

Trong hoàn cảnh ngặt nghèo ấy, các bác sĩ không chỉ đứng trước áp lực cứu người, mà còn phải đối mặt với trách nhiệm lựa chọn ai được cứu.

“Chúng tôi buộc phải lựa. Một ca mổ tim khi ấy cần tiêu tốn quá nhiều thiết bị quý giá, mà số lượng có hạn. Nếu bệnh nhân có cơ hội sống thấp thì buộc lòng phải nhường cơ hội mổ cho bệnh nhân có cơ hội sống cao”, ông nói.

GS Thành nhớ lại một trường hợp năm 1997. Một cậu bé 17 tuổi ở Thanh Hóa bị suy tim nặng, tiên lượng tử vong.

“Tuy nhiên, tôi đặt vấn đề với các thầy và chuyên gia Pháp mổ cho cậu bé, vì còn quá trẻ, còn nhiều tương lai phía trước”, GS Thành nhớ lại.

Ca mổ thành công. Cậu bé ấy được tái sinh, sau đó đậu Đại học Bách Khoa, có vợ, ba con và đến nay vẫn khỏe mạnh. GS Thành đã mổ lại cho anh ba lần.

Những “phép màu” như vậy là động lực để ông và các cộng sự tiếp tục theo đuổi giấc mơ lớn: đưa mổ tim, đặc biệt là mổ tim trẻ em, trở thành kỹ thuật thường quy tại Việt Nam.

Sau chuyến đi “tầm sư học đạo” tại Pháp với bậc thầy phẫu thuật tim sơ sinh Yves Lecomte, GS Thành (khi này là trưởng khoa Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực) cùng đồng nghiệp bắt đầu tiến hành mổ tim cho trẻ dưới 10kg từ tháng 9/2005 với sự giúp đỡ của GS Charles de Riberolle.

Bệnh nhi mang bệnh tim bẩm sinh như thông liên thất, thông liên nhĩ hay tứ chứng Fallot lần lượt được cứu sống, mở ra hy vọng mới cho hàng nghìn gia đình.

Những ngày đó, các bà mẹ mang đứa con thoi thóp vì bệnh tim bẩm sinh đến Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức vẫn rơi nước mắt. Nhưng đó là những giọt nước mắt của niềm hạnh phúc vì không ngờ con mình được mổ, được có cơ hội “sống đúng nghĩa”.

Từ chỗ “cấm địa” chưa ai dám bước, việc mổ tim cho trẻ 5–6 kg dần trở nên thường quy, diễn ra hàng ngày tại bệnh viện.

Đỉnh cao của giai đoạn này là ca phẫu thuật cho bé Đỗ Hoàng Trường An mới 20 ngày tuổi vào cuối năm 2007. Đây là bệnh nhi nhỏ tuổi nhất và nhẹ cân nhất từng được mổ tim ở Việt Nam thời điểm đó.

Dị tật tim của bé An vô cùng phức tạp (một lỗ thông liên thất lớn >1cm gây tăng áp phổi nặng). Đây thực sự là thử thách “cân não” đối với ekip phẫu thuật, bởi phải ngừng tim và chạy tuần hoàn ngoài cơ thể cho một cơ thể sơ sinh mong manh là bài toán hóc búa.

Thế nhưng, với sự chuẩn bị kỹ lưỡng về chẩn đoán, gây mê hồi sức và kỹ thuật mổ, GS Thành cùng các cộng sự đã hoàn thành ca mổ sau 4 giờ cam go. Năm ngày sau phẫu thuật, bé An tự bú mẹ được, và sau 20 ngày đã tăng lên 4,5 kg. Một kết quả kỳ diệu đối với đứa trẻ tưởng như đã đối diện kết cục buồn.

Thành công này được báo giới ca ngợi là “bước tiến khẳng định đẳng cấp của phẫu thuật tim mạch Việt Nam, mở ra cơ hội sống và phát triển bình thường cho nhiều trẻ bị dị tật tim bẩm sinh”.

"Đằng sau mỗi ca mổ sơ sinh thành công là cả một hệ thống vận hành chính xác đến tuyệt đối. Điều đầu tiên cần có, là hệ thống trang thiết bị hiện đại. Nhưng chỉ thiết bị thôi là chưa đủ. Quan trọng không kém là kỹ thuật, mà cụ thể là một ê-kíp được đào tạo bài bản và phối hợp nhuần nhuyễn.

Bên cạnh các phẫu thuật viên, ngay từ khâu chẩn đoán, cần đến các bác sĩ nội khoa tim mạch có kinh nghiệm, đưa ra đánh giá chính xác tuyệt đối. Bước vào ca mổ, cần một ekip gây mê hồi sức thực sự xuất sắc.

Trẻ sơ sinh khác người lớn ở chỗ chỉ một sai số nhỏ về dịch hay huyết áp cũng có thể gây nguy hiểm đến tính mạng”, GS Thành phân tích.

Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức nhanh chóng trở thành trung tâm phẫu thuật tim hàng đầu cả nước, liên tục tiếp nhận những ca bệnh nhi tim bẩm sinh nặng từ khắp nơi.

Đội ngũ do GS Lê Ngọc Thành dẫn dắt vừa trực tiếp cứu chữa người bệnh, vừa đào tạo chuyển giao kỹ thuật cho nhiều địa phương khác, đặt nền móng phát triển phẫu thuật tim ở các tỉnh thành.

Đã từng có thời, phẫu thuật tim gắn liền với hình ảnh những vết mổ dài 15-20cm chạy dọc trước ngực, cùng với tiếng cưa xương ức lạnh người trong phòng mổ.

Mỗi lần như vậy, GS Lê Ngọc Thành lại trăn trở: Tại sao người bệnh, nhất là trẻ em còn cả một đời phía trước, lại phải mang theo một vết sẹo dài và nỗi đau quá lớn như thế?

Sau khi giải quyết bài toán phẫu thuật tim trẻ em, GS Thành tiếp tục hướng đến nâng cao chất lượng phẫu thuật bằng công nghệ hiện đại. Ông nhận thấy trên thế giới từ đầu những năm 2000, các trung tâm lớn tại Mỹ, Pháp, Đức, Nhật… đã bắt đầu triển khai kỹ thuật mổ tim ít xâm lấn có nội soi hỗ trợ nhằm giảm sang chấn cho người bệnh.

Tuy nhiên, để áp dụng tại Việt Nam không hề đơn giản. Kỹ thuật này đòi hỏi độ chính xác tuyệt đối, trang thiết bị tối tân và quá trình học tập dài hơi cho ê-kíp phẫu thuật.

Tháng 8/2010, từ Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, GS Thành được Bộ Y tế điều động và bổ nhiệm làm Giám đốc Trung tâm Tim mạch trực thuộc Bệnh viện E kiêm Phó Giám đốc Bệnh viện E.

Ở đơn vị mới, GS Thành đã tập trung nguồn nhân lực, phát triển chuyên môn và chỉ sau 2 năm hoạt động, Trung tâm Tim mạch của Bệnh viện E đã là đơn vị chuyên môn kỹ thuật hàng đầu trong cả nước trong lĩnh vực phẫu thuật tim cho trẻ em.

Cũng trong giai đoạn này, ông cũng dồn lực cho mục tiêu: Nội soi phải là tương lai của phẫu thuật tim.

Từ năm 2011 đến 2012, ông cùng ê-kíp y bác sĩ đến những trung tâm tim mạch lớn tại Mỹ và châu Âu để học và quan sát trực tiếp phẫu thuật tim nội soi.

Đoàn công tác không chỉ quan sát, mà còn học từng thao tác, từng bước vận hành thiết bị. Khi trở về Việt Nam, họ mang theo tư tưởng mới mẻ, nội soi tim, dù phức tạp, hoàn toàn có thể ứng dụng, nếu có đủ đào tạo và thiết bị phù hợp.

Cuối năm 2012, GS Thành bắt tay thành lập một ê-kíp phẫu thuật tim nội soi chuyên biệt. Trước mắt họ là một “trận đánh lớn”.

Ngày 20/9/2013, bệnh nhân Nguyễn Thị Bình (38 tuổi, Bắc Giang) được thực hiện thay van hai lá bằng kỹ thuật nội soi tim hở ít xâm lấn do ê-kíp của GS Thành thực hiện.

Ca mổ ghi dấu vào lịch sử y học: Lần đầu tiên tại Việt Nam thực hiện thành công phẫu thuật tim hở với nội soi hỗ trợ.

Thành công này đánh dấu bước ngoặt lớn, đưa Việt Nam trở thành một trong số ít quốc gia làm chủ kỹ thuật tối tân ngang tầm thế giới. Từ ca mổ đầu tiên ấy, phẫu thuật tim nội soi nhanh chóng được triển khai thường quy.

“Thay van tim 2 lá với mổ mở trước đây, vết mổ này rất dài, phải cưa xương ức, sau đó xương ức của bệnh nhân được khâu lại bằng chỉ thép khiến người bệnh rất đau đớn, thời gian hồi phục lâu, nguy cơ nhiễm trùng cao hơn và để lại sẹo xấu dọc ngực.

Phương pháp nội soi này khắc phục được toàn bộ những tồn tại của mổ mở. Bệnh nhân không phải cưa xương ức, tránh được những biến chứng viêm xương ức và hạn chế mất máu khi mổ. Ngoài ra vết mổ cũng ngắn hơn rất nhiều,  người bệnh khỏe hơn và thời gian nằm viện cũng ngắn hơn (4-5 ngày là được xuất viện)”, GS Thành chia sẻ.

Tại Hội nghị Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực ở Vương quốc Anh năm 2017, y học Việt Nam gây tiếng vang khi GS Thành báo cáo về kỹ thuật vá thông liên nhĩ hoàn toàn bằng nội soi qua bốn lỗ trocar <1cm.

Các đồng nghiệp quốc tế đánh giá rất cao bước tiến trong lĩnh vực phẫu thuật nội soi tim mạch này của Việt Nam. Ngay cả ở Anh khi đó cũng chỉ có vài trung tâm thực hiện được phẫu thuật tim nội soi như vậy.

Tự hào hơn, kỹ thuật nội soi tim do GS Thành phát triển hoàn toàn bằng nguồn lực trong nước, không cần đến hệ thống robot đắt tiền mà nhiều nước phải sử dụng. Điều này mở ra triển vọng áp dụng rộng rãi phương pháp mổ tiên tiến với chi phí hợp lý, phù hợp cho điều kiện Việt Nam.

GS Lê Ngọc Thành quan niệm người thầy thuốc “phải luôn thay đổi và cập nhật công nghệ để đem lại điều tốt nhất cho người bệnh”.

Năm 2019, công trình “Ứng dụng phẫu thuật nội soi trong mổ tim hở” của nhóm bác sĩ Bệnh viện E do GS Lê Ngọc Thành đứng đầu đã được trao giải Nhất Giải thưởng Nhân tài Đất Việt lĩnh vực Y - Dược.

Tại lễ trao giải, ông khiêm tốn gửi lời tri ân tới các bệnh nhân và gia đình đã tin tưởng lựa chọn gửi gắm cho bệnh viện điều trị, góp phần vào thành công chung của công trình khoa học này.

Từ một lĩnh vực non trẻ với muôn vàn khó khăn ban đầu, đến nay phẫu thuật tim mạch Việt Nam đã có những bước tiến dài vững chắc.

GS Thành gọi sự phát triển của lĩnh vực phẫu thuật tim mạch nước nhà trong 20 năm qua là “khó tin với cả những người trong nghề”.

Những ca mổ tim hở cho trẻ sơ sinh vài kilogam, những ca mổ nội soi tim với đường rạch da chỉ 1,5 cm, tất cả đều đã trở thành hiện thực nhờ bàn tay và khối óc của những “blouse trắng” tận hiến với nghề.

Không chỉ kỹ thuật thay đổi, số lượng ca mổ cũng đã đạt đến con số đáng kinh ngạc.

Nếu cách đây 15 năm, cả Hà Nội chỉ có khoảng 500 ca mổ tim mỗi năm, thì giờ đây, riêng 4 trung tâm tim mạch lớn: Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện E, Bệnh viện Tim Hà Nội đã thực hiện khoảng 5.000 ca/năm.

Cùng với sự phát triển của kỹ thuật là một cuộc cách mạng về thiết bị. “Ngày xưa chỉ có chiếc máy tim phổi nhân tạo đơn thuần. Bây giờ, chúng ta có hệ thống mổ nội soi 3D, 4D, giúp phóng đại phẫu trường, tiếp cận cả những góc khuất mà trước kia phẫu thuật mở cũng chưa chắc nhìn thấy được”, GS Thành chia sẻ.

Một điều đáng tự hào nữa là việc mổ tim lặp đi lặp lại, điều từng được xem là bất khả thi.

Trước kia, mổ một lần đã là điều kỳ tích, thì giờ đây, một bệnh nhân có thể trải qua hai lần mổ mở và một lần thay van tim qua da. Tôi từng mổ cho một bệnh nhân 3 lần. 17 năm sau lần mổ đầu được mổ lại, và 17 năm sau nữa, thay van động mạch chủ qua da. Bây giờ cụ đã hơn 80 tuổi và vẫn sống khỏe. Điều đó ngày xưa không ai dám nghĩ tới”, ông nói.

Với trẻ em, những thay đổi còn ấn tượng hơn.

“Có những ca tim bẩm sinh, chúng tôi mổ ngay trong năm đầu tiên sau sinh, giúp các cháu sinh hoạt hoàn toàn bình thường. 15 năm sau, bệnh nhân quay lại thay lại van lần hai và tiếp tục chu kỳ 15 năm nữa lại thay van qua da. Ngày xưa không thể làm được như vậy”, vị giáo sư vui mừng kể như đã hoàn thành một tâm nguyện với các bệnh nhi.

Hai mươi năm trước, ca mổ tim trẻ em đầu tiên dưới 10kg tại Việt Đức khép lại trong những giọt nước mắt hạnh phúc của người mẹ, mở ra một chương mới cho ngành phẫu thuật tim Việt Nam.

Các thế hệ học trò của GS Thành hay những “cây đa, cây đề” khác, từ cánh gà trong phòng phẫu thuật giờ đây đã là những phẫu thuật viên chính.

Họ tiếp tục sứ mệnh viết tiếp cuộc đời cho những trái tim bị lỗi nhịp và cùng các thế hệ đi trước tạo nên tầm vóc của nền phẫu thuật tim mạch Việt Nam.

Nội dung: Hồng Hải, Minh Nhật

Thiết kế: Vũ Hưng

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: daisanjsc@gmail.com

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn