4 người sẽ không vui khi xe điện đắt hàng

Trong mọi cuộc chuyển dịch lớn, luôn có những người hụt hẫng. Nhìn vào bức tranh xe điện - xe xăng, hiện nay, tôi có thể thấy khá rõ những "nét mặt không vui" ấy:
Thứ nhất, các hãng xe xăng và hệ thống đại lý của họ
Xe dùng động cơ đốt trong (ICE) vốn "sống khỏe" nhờ bảo dưỡng định kỳ, phụ tùng tiêu hao, dịch vụ hậu mãi. Khi người dùng chuyển sang xe điện, ít hạng mục bảo dưỡng hơn, nguồn thu này co lại.
Thứ hai, chuỗi xăng dầu và các dịch vụ gắn với xe xăng.
Các doanh nghiệp bán lẻ xăng, hệ sinh thái dầu nhớt, lọc dầu, bugi, ống xả... đương nhiên mất dần khách. Ở cấp vĩ mô, cơ cấu thu ngân sách từ xăng dầu sẽ chịu áp lực khi tỷ trọng tiêu thụ xăng giảm. Đây là độ trễ mà bất kỳ quốc gia nào điện hóa giao thông cũng phải chuẩn bị phương án bù đắp.
Thứ ba, những người chậm điện hóa trong vận tải hành khách
Tốc độ mở rộng của các hãng taxi điện và hệ sinh thái thuê, cho thuê xe điện tạo ra áp lực rất lớn với taxi truyền thống và cả gọi xe công nghệ nếu không kịp đổi mới. Có thời điểm, các nguồn tổng hợp thị trường cho thấy một hãng taxi điện đã vươn lên nhóm dẫn đầu mảng gọi xe, quy mô phương tiện (bao gồm ôtô và xe hai bánh điện) lên tới hàng chục nghìn chiếc. Các hãng không kịp chuyển đổi sẽ mất thị phần ngay trên những cung đường đông khách nhất.
Thứ tư, dịch vụ đăng kiểm khí thải và các hạng mục chỉ có ở xe xăng. Xe điện không cần kiểm định khí thải, không thay dầu lọc, các hạng mục này suy giảm doanh thu là điều thấy trước.
Ngoài ra, về dài hạn, điện lực được lợi nhờ sản lượng tăng. Nhưng trước mắt, những bãi xe chung cư, khu đô thị mới hoặc quốc lộ có lưu lượng cao cần đầu tư nâng cấp cấp điện, quản lý phụ tải giờ cao điểm, tiêu chuẩn an toàn và phòng cháy. Biểu giá bán điện mới cho trạm sạc. Chính vì vậy, cân bằng giữa giá điện hấp dẫn và đảm bảo lưới sẽ là bài toán vĩ mô quyết định nhịp chuyển dịch.
Bên cạnh đó, thị trường xe điện nếu "bùng nổ" đặt ra áp lực ngược: Cần mở chuẩn sạc để không cô lập người dùng; cần biểu giá điện hợp lý để doanh nghiệp đầu tư trạm sạc có lãi; cần chuỗi cung ứng linh kiện trong nước để hạ giá thành và tránh phụ thuộc; cần tái đào tạo cho hàng vạn lao động trong dịch vụ hậu mãi xe xăng.
Nếu các mảnh ghép ấy không được giải quyết, chính những doanh nghiệp dẫn dắt thị trường cũng phải đối mặt với sự chậm trễ và phản ứng ngược từ các bên liên quan.
Nếu viễn cảnh xe điện bán đắt như tôm tươi, những người không vui sẽ là các chuỗi giá trị gắn chặt với động cơ đốt trong, các chủ xe xăng lo mất giá, và cả những nhà vận hành hạ tầng nếu chính sách, kỹ thuật không kịp song hành.
Ngược lại, người tiêu dùng, môi trường và các doanh nghiệp dám đầu tư dài hạn sẽ là bên mỉm cười.
Sự chuyển đổi nào cũng sẽ luôn có người hưởng - kẻ thiệt, nhưng điều quan trọng là giảm thiểu nỗi không vui ấy bằng lộ trình công bằng, minh bạch và biết lắng nghe.
Nguyễn Duy Trường