Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam tăng trưởng mạnh nhưng chúng ta cũng đang trở thành thị trường lớn tiêu thụ nguyên liệu của nhiều nước. Việc này đáng mừng hay đáng lo?
Chi tỉ USD nhập khẩu nguyên liệu
VN đang là quốc gia chế biến và xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới với dự báo kim ngạch xuất khẩu thủy sản sẽ đạt 10,5 tỉ USD trong năm nay. Tuy nhiên, 10 tháng qua, các doanh nghiệp cũng đã chi gần 3 tỉ USD để nhập khẩu thủy sản, tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm ngoái, cao nhất từ trước đến nay.
Theo Bộ NN-MT, VN chủ yếu nhập thủy sản từ Ấn Độ, Indonesia và Na Uy, chiếm lần lượt 15%, 14,2% và 10,7% tổng giá trị, bên cạnh một số thị trường khác. So với cùng kỳ năm trước, nhập khẩu từ Ấn Độ tăng gấp đôi, từ Indonesia tăng 58% và Na Uy tăng 17%.
Không chỉ riêng thủy sản, những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của VN như cà phê, gạo, hồ tiêu và cả dừa khô cũng được nhập khẩu ngày càng nhiều. Đơn cử, VN hiện giữ vị thế là nước xuất khẩu hồ tiêu số 1 thế giới, nhưng theo Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị VN (VPSA), từ đầu năm đến cuối tháng 10, chúng ta đã nhập 37.783 tấn hồ tiêu, tổng kim ngạch 236,9 triệu USD. Đây là khối lượng nhập khẩu kỷ lục từ trước đến nay, vượt xa con số 30.295 tấn ghi nhận trong cả năm 2024. So với cùng kỳ năm trước, lượng nhập khẩu tăng 25,3% và kim ngạch tăng 65,6%, còn so với cùng kỳ năm 2023, lượng nhập khẩu tăng tới 67,9%. Brazil là quốc gia cung cấp hồ tiêu lớn nhất cho VN, tiếp đến là Campuchia và Indonesia. Hay như mặt hàng gạo, VN là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới nhưng vẫn nhập hàng triệu tấn gạo trị giá trên 1,5 tỉ USD trong những tháng đầu năm. Trong lĩnh vực rau quả, các doanh nghiệp chế biến dừa đã chi đến gần 40 triệu USD để nhập khẩu dừa khô nguyên liệu vì nguồn cung trong nước thiếu hụt, giá tăng cao.
Chia sẻ với PV Thanh Niên, giám đốc một doanh nghiệp chế biến thủy sản tại Đồng Tháp cho biết: Việc nhập khẩu nguyên liệu thủy sản để chế biến, sau đó xuất khẩu đã được các doanh nghiệp thực hiện từ nhiều năm nay. Điều khác biệt là khối lượng thủy sản nhập khẩu mỗi năm mỗi tăng, và VN đang là điểm đến của những nơi cung cấp thủy sản trên thế giới. Bên cạnh đó, với dân số trên 100 triệu dân, nhu cầu sử dụng thủy hải sản rất lớn nên VN còn là thị trường tiêu thụ hấp dẫn của các nước khác. "Ví dụ như công ty chúng tôi chế biến cá, surimi xuất khẩu sang Nhật, nhưng đồng thời cũng nhập hàu, sò điệp… để tiêu thụ nội địa. Quy trình này có thể tận dụng được các container vận chuyển, cũng như trao đổi hàng hóa để khai thác lợi thế của thị trường hai bên", vị này dẫn chứng.
Theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản VN (VASEP), cả nước hiện có hơn 600 nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu sang các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc. Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu trong nước, đặc biệt là tôm, cá biển và hải sản cao cấp, vẫn thiếu ổn định vì phụ thuộc vào mùa vụ. Để nhà máy hoạt động ổn định, các doanh nghiệp phải cân đối nhu cầu đơn hàng và sử dụng nguyên liệu thủy sản nhập khẩu để duy trì hoạt động liên tục, đảm bảo tiến độ đơn hàng và giảm chi phí khi giá nguyên liệu nhập thấp hơn trong nước. Thực tế, Ấn Độ, một trong 3 quốc gia xuất khẩu tôm lớn nhất thế giới, cung cấp nguồn nguyên liệu có giá rẻ hơn 10 - 15% so với sản phẩm trong nước, giúp doanh nghiệp mở rộng lựa chọn ở phân khúc giá thấp. Indonesia cung cấp cá ngừ, mực và hải sản đánh bắt xa bờ, góp phần ổn định nguồn nguyên liệu cho ngành chế biến. Trong khi đó, Na Uy cung cấp cá hồi, cá tuyết và hải sản nước lạnh cao cấp, phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và phân khúc nhà hàng, khách sạn.
Chiến lược "nhập để xuất" nhằm tối ưu cơ hội
Lãnh đạo Hiệp hội Lương thực VN (VFA) phân tích việc VN nhập khẩu gạo không bắt nguồn từ tình trạng thiếu hụt nguồn cung như ở các quốc gia khác, mà là nhằm phục vụ nhu cầu chế biến thực phẩm trong nước và đảm bảo ổn định nguồn cung cho hoạt động xuất khẩu vào những thời điểm giáp vụ. Trong nhiều năm qua, VN đã chuyển hướng sang sản xuất gạo chất lượng cao, phù hợp với các thị trường khó tính. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu dùng trong nước ưa chuộng các sản phẩm như bún, miến, bánh tráng, phở… lại cần nguyên liệu gạo có giá thành rẻ, hàm lượng tinh bột cao. Vì vậy, trong nhiều thời điểm, VN đã nhập gạo khá nhiều từ Campuchia, Ấn Độ để đáp ứng nhu cầu này.
"Chiến lược "nhập để xuất" đang hình thành một mô hình thương mại linh hoạt, không chỉ giúp giải quyết khó khăn tạm thời về nguồn cung mà còn tận dụng được mối quan hệ với các đối tác thương mại, tạo điều kiện cho doanh nghiệp VN linh hoạt hơn trong việc đáp ứng các đơn hàng lớn. Các doanh nghiệp Việt cũng tham gia sâu hơn, trở thành những nhà buôn toàn cầu chứ không chỉ là người bán hàng thuần túy như trước", lãnh đạo VFA nhận định.
Trước băn khoăn rằng việc phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu có dẫn đến bị o ép, ép giá, gây thiệt hại doanh thu như một số ngành khác gặp phải hay không, nhiều doanh nghiệp và đại diện các hiệp hội đều cho rằng đây là khả năng có thể xảy ra nhưng chỉ đối với số ít những ngành hàng đặc thù hoặc đang dần đánh mất sự chủ động đối với vùng nguyên liệu.
Ông Cao Bá Đăng Khoa, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Dừa VN, chia sẻ: "Trong thời điểm giá dừa VN tăng cao, các nhà máy chế biến trong nước đã chọn giải pháp nhập khẩu nguyên liệu để chế biến. Đây là giải pháp phù hợp để họ có thể duy trì hoạt động ổn định và cân đối được bài toán lợi nhuận. Khi giá dừa trong nước trở về mức thu mua phù hợp thì họ sẽ ưu tiên mua nguyên liệu trong nước. Trên thế giới, dừa VN có chất lượng cao và cũng đã xây dựng được thương hiệu nên việc phát triển vùng nguyên liệu trong nước mới tận dụng được thời cơ".
Một doanh nghiệp xuất khẩu cà phê tại TP.HCM cũng đồng tình: "Thời gian gần đây, VN nhập khẩu cà phê từ các nước khác nhưng điều đó không có nghĩa là phụ thuộc nước ngoài mà hoàn toàn thể hiện sự chủ động, nắm vững thị trường và thể hiện được vai trò thương nhân toàn cầu. Trên hết, vùng nguyên liệu của VN vẫn chiếm tỷ trọng lớn nên lượng nguyên liệu nhập khẩu không thể áp đảo được".
Đại diện VPSA cũng cho rằng việc nhập khẩu hồ tiêu tăng cao từ đầu năm đến nay là do sản lượng trong nước sụt giảm, giá hồ tiêu toàn cầu tăng mạnh và nhu cầu chế biến - tái xuất gia tăng. Đây cũng là chiến lược phổ biến của các doanh nghiệp lớn nhằm tận dụng nguồn cung giá cạnh tranh từ các quốc gia có sản lượng dồi dào, đồng thời giữ ổn định nguyên liệu đầu vào phục vụ xuất khẩu. Các doanh nghiệp nhập khẩu cũng linh động theo từng thời điểm, đàm phán mức giá có lợi chứ không phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu như một số ít ngành khác.














