Việt Nam đang đào tạo y khoa không giống ai?

Có một vấn đề đã được nhận ra từ rất lâu nhưng đến nay vẫn chưa thay đổi nhiều, đó là làm sao đào tạo y khoa ở Việt Nam tiếp cận được chuẩn quốc tế.
Từ năm 2010, dự án đổi mới giáo dục y khoa của Trường đại học Y Dược TP.HCM theo xu hướng của giáo dục y khoa hiện đại trên thế giới được khởi động.
Tháng 11-2015, Bộ Y tế, Ngân hàng Thế giới, Liên minh châu Âu tại Việt Nam cũng khởi động dự án "Giáo dục và đào tạo nhân lực y tế phục vụ cải cách hệ thống y tế" (HPET), qua đó đã có những bàn thảo đề xuất mô hình đào tạo bác sĩ theo yêu cầu mới. Mới nhất là đề xuất đổi mới đào tạo bác sĩ của Trường đại học Y Dược thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tuổi Trẻ đã trao đổi với GS.TS Lê Ngọc Thành, hiệu trưởng Trường đại học Y Dược (Đại học Quốc gia Hà Nội).
"Mình không giống ai..."
* Bằng bác sĩ của nhiều nước lân cận chúng ta đã được quốc tế công nhận, tại sao mình chưa được?
- Lý do là mình không giống ai, như Singapore đang theo mô hình của Anh; còn Thái Lan, Đài Loan (Trung Quốc) đang theo mô hình Mỹ. Như ở Mỹ sau khi học 10 năm sẽ là bác sĩ đa khoa chung, ở Pháp thời gian trở thành bác sĩ đa khoa chung là 9 năm, học 11 - 12 năm sẽ là bác sĩ chuyên khoa.
Việt Nam theo tôi cần học hỏi một mô hình và có những quyết sách để đảm bảo bác sĩ đào tạo ra là giỏi nghề, có bác sĩ làm việc ở các lĩnh vực hiện đang thiếu là phong, lao, tâm thần; có bác sĩ làm việc ở vùng sâu, vùng xa...
* Mô hình và quyết sách như ông nói là gì?
- Thứ nhất là chương trình và giáo trình, theo tôi được biết Singapore, Thái Lan hay Đài Loan họ nhập khẩu chương trình đào tạo y khoa.
Chúng ta cũng nghĩ nên như vậy và một hướng "nhập khẩu" đáng chú ý là Pháp. Nền y tế của Pháp đứng trong tốp đầu của thế giới, các thầy thành danh trong y khoa Việt Nam nhiều năm nay cũng được đào tạo ở Pháp.
Chúng tôi đã đề nghị Bộ Y tế và đã có những ý kiến đồng thuận về việc "nhập khẩu" giáo trình, chương trình giảng dạy bác sĩ từ Pháp. Tại Pháp cũng đã có trường y khoa sẵn sàng chuyển giao cho chúng ta chương trình và giáo trình của họ.
Vấn đề quan trọng nữa với bác sĩ để hòa nhập với quốc tế bên cạnh chuyên môn là ngoại ngữ. Tại trường chúng tôi những năm gần đây đã yêu cầu giảng slide bằng tiếng Anh, năm nay Trường đại học Y Dược sẽ mở 4 lớp đào tạo thạc sĩ cho học viên Ấn Độ và cũng dạy bằng tiếng Anh. Bên cạnh đó là một câu lạc bộ tiếng Pháp và tháng 8 tới sẽ có 2 sinh viên năm thứ 5 đi thực tập 2 tháng tại Pháp.
Nhưng việc này theo tôi cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa, vì bác sĩ của chúng ta nhiều người mới ở mức "biết ngoại ngữ" thôi, còn giỏi ngoại ngữ là chưa, mà giỏi là thảo luận, học hỏi được khi có chuyển giao kỹ thuật mới, tham gia các nghiên cứu để mở mang kiến thức...
Về "quyết sách", tôi cho rằng ngay từ khi sinh viên vào trường thì nên minh bạch về lương/thu nhập nếu sinh viên chọn làm việc trong các lĩnh vực hiện rất khó thu hút người học là lao, phong, tâm thần hoặc thu hút bác sĩ về làm việc ở vùng sâu, vùng xa. Cũng rất nhiều sinh viên thích chuyên ngành lao, phong, tâm thần nhưng thu nhập của các bác sĩ này thông thường thấp hơn so với các chuyên ngành như sản, nhi, răng hàm mặt, tai mũi họng...
Bây giờ nếu công bố rõ lương của bác sĩ sản 10 triệu đồng nhưng lĩnh vực ưu đãi (chuyên ngành khó tuyển dụng, bác sĩ về vùng sâu, vùng xa) là 20 triệu đồng thì sẽ thu hút được ngay từ đầu.
Cần siết lại khâu tuyển sinh và đào tạo
* Hiện nay Việt Nam đang có chương trình theo mô hình đào tạo của Pháp là mô hình bác sĩ nội trú, đây là những bác sĩ được cho là "tinh hoa" của y khoa. Có nên mở rộng mô hình này?
- Trước đây khởi thủy ở nước ngoài, mô hình đào tạo bác sĩ nội trú để đào tạo những người giỏi nhất nhằm để có bác sĩ chữa bệnh cho những người giàu có nhất, nhưng tôi cho là bác sĩ chữa bệnh phải có chất lượng đồng đều, cho mọi người bệnh. Vì vậy những mô hình tốt cần giữ và nhân lên, nhưng cũng phải có sự đồng đều về chất lượng nói chung.
* Có một vấn đề đã được đặt ra là đào tạo y khoa ở Việt Nam đã đắt đỏ hơn các ngành khác, nhưng các bác sĩ tương lai vẫn chưa có nhiều thiết bị tiên tiến, thiết bị mô phỏng để học, sinh viên vẫn phải học trên những học cụ đã cũ. Ông nghĩ thế nào về điều này?
- Thời xưa chúng tôi học thì có thể được học tiêm trên người bệnh và thế là người ta bị tiêm đau (cười). Nay thì dạy và học y khoa đã được đổi mới nhiều, nhưng chúng ta vẫn chưa dạy được nhiều trên mô phỏng mà mới là bắt đầu có và chưa được đầu tư bài bản.
Vì thế cùng với đổi mới về chương trình, giáo trình, rất cần siết lại khâu tuyển sinh và đào tạo, những nơi mà đầu vào ngành bác sĩ thấp quá, chất lượng đào tạo cũng thấp thì có nên duy trì hay không? Hay qua đánh giá của Hội đồng Y khoa tới đây mà tỉ lệ chưa đạt chuẩn ở cơ sở đào tạo nào còn cao thì có nên xem xét không? Đồng thời đầu tư mạnh cho các cơ sở đào tạo chất lượng.
* Có một vấn đề chúng tôi gặp gần đây là nhiều sinh viên học lâm sàng tại bệnh viện nhưng thực ra vẫn là "học chay", thiếu nơi thực hành. Điều này có cần phải thay đổi?
- Hiện nay số lượng cơ sở đào tạo y khoa nhiều, số lượng sinh viên nhiều trong khi số bệnh viện thực hành để đào tạo lâm sàng chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Nghề y là nghề đặc biệt, cần tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt, nhưng sau 6 năm học bậc đại học, lương khởi điểm bác sĩ chỉ bằng với các ngành có thời gian học 4 năm, đây là điều cũng rất cần phải thay đổi.
Kinh nghiệm từ Mỹ, Anh và Nhật Bản
* Tại Mỹ: Chương trình đào tạo y khoa yêu cầu người học phải trải qua lộ trình dài và cạnh tranh khốc liệt. Theo công ty tư vấn du học y khoa và hỗ trợ ứng tuyển vào Trường đại học y Medifan, trước tiên sinh viên cần hoàn thành 4 năm đại học với chương trình tiền y khoa (pre‑med).
Sau đó, sinh viên phải vượt qua kỳ thi đầu vào để được xét tuyển vào các trường y, học tiếp 4 năm chương trình MD (Medical Doctor), với 2 năm lý thuyết và 2 năm thực hành lâm sàng. Giai đoạn tiếp theo, sinh viên tiếp tục thực tập nội trú (residency) kéo dài từ 3 - 7 năm tùy chuyên ngành.
Đối với sinh viên Mỹ, hệ thống đào tạo bác sĩ sau đại học được giám sát bởi Hội đồng Công nhận đào tạo sau đại học y khoa (ACGME). Đối với sinh viên quốc tế, một điều kiện bắt buộc là bằng cấp phải đến từ các trường nằm trong danh mục Trường Y khoa toàn cầu (WDOMS), đồng thời vượt qua kỳ thi cấp phép hành nghề y tại Mỹ (USMLE) để được cấp chứng nhận hành nghề bởi Ủy ban Giáo dục dành cho bác sĩ tốt nghiệp y khoa nước ngoài (ECFMG).
* Tại Anh: Khác với Mỹ, hệ thống đào tạo ngành y tại Anh cho phép học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đăng ký trực tiếp vào chương trình y khoa kéo dài từ 5 - 6 năm có tên gọi MBBS (hoặc MBChB). Sau khi tốt nghiệp, sinh viên phải hoàn thành thêm 2 năm chương trình thực hành lâm sàng bắt buộc "Foundation Programme" (FY1 - FY2) trước khi chọn chuyên khoa.
Các trường y tại Anh được quản lý bởi Hội đồng Y khoa Vương quốc Anh (GMC) - một cơ quan độc lập có chức năng quản lý, cấp phép và giám sát đạo đức nghề nghiệp của bác sĩ hành nghề tại Anh. Tuy nhiên từ năm 2024, bằng cấp y khoa của Anh sẽ chỉ được công nhận quốc tế, đặc biệt là tại Mỹ, nếu GMC được công nhận bởi Liên đoàn Giáo dục y khoa thế giới (WFME) - theo quy định mới về tiêu chuẩn toàn cầu của ECFMG.
Theo tờ Financial Times, dù bằng cấp của Anh vẫn được đánh giá cao trong khối Thịnh vượng chung, song sau sự kiện Brexit, một số nước châu Âu (EU) như Pháp và Đức đã không còn cơ chế tự động công nhận bằng cấp chuyên khoa từ Anh, mà cần thêm một số yêu cầu chứng chỉ và đào tạo bổ sung.
Do đó, khả năng di chuyển và hành nghề quốc tế của bác sĩ tốt nghiệp từ hệ thống Dịch vụ y tế quốc gia của Vương quốc Anh (NHS) cũng bị ảnh hưởng một phần.
* Tại Nhật Bản: Ở châu Á, Nhật Bản là một trong số các quốc gia được xem là hình mẫu đào tạo y khoa theo chuẩn quốc tế. Tại đây, sinh viên học chương trình bác sĩ đa khoa kéo dài 6 năm sau trung học, gồm 4 năm lý thuyết và 2 năm thực hành lâm sàng tại bệnh viện. Sau khi tốt nghiệp, họ cần hoàn thành thêm 2 năm đào tạo lâm sàng cơ bản, rồi mới có thể theo chuyên ngành (3 - 5 năm tùy lĩnh vực), theo cổng thông tin chính thức của Thư viện Y khoa quốc gia Mỹ (NIH).
Đáng chú ý, từ năm 2017, Hội đồng Công nhận đào tạo y khoa Nhật Bản (JACME) - đơn vị đánh giá các trường y tại Nhật - đã được WFME công nhận, giúp Nhật trở thành quốc gia áp dụng chuẩn công nhận trường y theo tiêu chuẩn toàn cầu. Đến cuối năm 2024, gần như toàn bộ 82 trường y tại Nhật dự kiến đạt chuẩn công nhận quốc tế, mở ra cơ hội hành nghề rộng rãi cho bác sĩ Nhật trên toàn cầu.
Đặc biệt, Nhật Bản rất chú trọng cân bằng giữa lâm sàng và học thuật. Theo một nghiên cứu công bố trên tạp chí y khoa Medical Teacher năm 2023, sinh viên y tại Nhật dành trung bình hơn 240 giờ trong suốt quá trình đào tạo tại các trung tâm nghiên cứu học thuật của trường, cho thấy cam kết đào tạo bác sĩ có tư duy nghiên cứu và thực nghiệm lâm sàng.