Vì sao giá dầu lao dốc bất chấp biến động toàn cầu ?

Mặc dù các điểm nóng xung đột vẫn khó lường, nhưng giá dầu thực tế lại đang giảm và đây dường như là xu hướng lâu dài.
Hôm qua (29.9), giá dầu Brent giảm 1,13 USD, tương đương 1,6%, xuống mức 69 USD/thùng, giá dầu WTI giảm 1,22 USD, tương đương 1,9%, xuống còn 64,5 USD/thùng.
Nguồn cung tăng
Dầu thô giảm giá sau khi Reuters ngày 28.9 dẫn một số nguồn tin thân cận tiết lộ Tổ chức các nước xuất khẩu dầu (OPEC) cùng các đồng minh (gọi chung là nhóm OPEC+) dự kiến sẽ thống nhất tăng sản lượng khai thác sau cuộc họp trực tuyến vào ngày 5.10 tới.
Trước đây, OPEC+ đã phối hợp cắt giảm sản lượng khai thác nhằm đẩy giá dầu lên cao, nhưng cuối cùng vẫn không thành công, bởi nhiều nguồn khai thác thay thế khác đã nhanh chóng bù đắp, nổi bật là dầu đá phiến được khai thác tại Mỹ. Giữa bối cảnh như vậy, cùng với những áp lực khác, OPEC+ đã đảo ngược chính sách từ tháng 4 vừa qua, tăng hạn ngạch khai thác đến nay thêm khoảng 2,5 triệu thùng/ngày, tương đương 2,4% nhu cầu toàn thế giới.
Bên cạnh đó, sau nhiều năm bế tắc, một thỏa thuận tạm thời giữa chính phủ liên bang Iraq, chính quyền khu vực người Kurd (KRG) và các nhà sản xuất dầu nước ngoài hoạt động trong khu vực sẽ cho phép hoạt động trở lại đường ống từ khu vực bán tự trị người Kurd ở miền bắc Iraq đến Thổ Nhĩ Kỳ. Nhờ đó, mỗi ngày có thêm 180.000 - 190.000 thùng dầu thô chảy đến cảng Ceyhan của Thổ Nhĩ Kỳ, để cung cấp cho thị trường chung toàn cầu.
Những diễn biến vừa nêu đã làm lu mờ các diễn biến có thể gây tiêu cực cho nguồn cung dầu mỏ thế giới như Iran đối mặt với biện pháp trừng phạt mới từ LHQ, hay các cơ sở lọc dầu quan trọng của Nga vừa chịu tổn thất nghiêm trọng do bị Ukraine tấn công.
Bên cạnh đó, việc Mỹ chính thức áp thuế đối ứng và tăng thuế một số mặt hàng đang khiến cho chuỗi cung ứng toàn cầu bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Điều này đồng nghĩa với việc sản lượng công nghiệp của phần lớn các quốc gia có nền kinh tế lệ thuộc xuất khẩu sẽ suy giảm, nên nhu cầu sử dụng năng lượng phục vụ sản xuất cũng giảm theo.
Nhu cầu giảm
Thực tế không chỉ trong ngắn hạn mà nhu cầu sử dụng dầu thô nhiều khả năng sẽ giảm trong cả dài hạn. Trong phân tích gửi đến Thanh Niên mới đây, TS Ian Bremmer, Chủ tịch Eurasia Group (Mỹ) - đơn vị tư vấn và nghiên cứu rủi ro chính trị hàng đầu thế giới, đã chỉ ra xu hướng này.
Theo ông, suốt nhiều thập niên, nhiều nhà phân tích đã khẳng định thế giới sẽ đến lúc cạn kiệt dầu mỏ có thể tiếp cận. Những lý thuyết đó đã được chứng minh là sai, điển hình gần đây thế giới ngày càng đẩy mạnh công nghệ khai thác dầu đá phiến sắt giúp khai mở ra nhiều nguồn cung mới khác với các chủng loại dầu khí truyền thống. Đây cũng là lý do khiến Mỹ trở thành nhà sản xuất và xuất khẩu hàng đầu thế giới.
Không dừng lại, cấu trúc năng lượng thế giới đang thay đổi mạnh mẽ. Nổi bật, sự thay đổi mạnh mẽ đến từ Trung Quốc, nơi có nhu cầu sử dụng nhiên liệu hóa thạch chiếm tỷ trọng cao của nhu cầu dầu mỏ toàn cầu trong 30 năm. Từ năm 2010 - 2020, nhập khẩu dầu của Trung Quốc đã tăng gấp đôi, lên mức 10 triệu thùng mỗi ngày. Nhưng thời kỳ đó dường như đã kết thúc vì sự chuyển đổi nhân khẩu học cùng một cuộc cách mạng năng lượng tăng tốc nhanh chóng cũng như mức tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Trong đó, chỉ trong 5 năm, thị phần của xe điện trong doanh số bán ô tô mới ở Trung Quốc đã tăng từ khoảng 5% lên hơn 50%. Không chỉ vậy, sự chuyển đổi công nghệ của Trung Quốc còn vượt xa ngành ô tô. Bắc Kinh cũng đang nhanh chóng điện khí hóa hệ thống sưởi ấm và công nghiệp nặng trong khi triển khai công suất năng lượng tái tạo (đặc biệt là năng lượng mặt trời) ở quy mô lịch sử. Nước này đã lắp đặt gần 270 gigawatt năng lượng tái tạo mới chỉ trong nửa đầu năm 2025 - nhiều hơn gấp đôi công suất mới được lắp đặt bởi toàn bộ phần còn lại của thế giới trong cùng thời kỳ, gấp 6 lần những gì Mỹ đã làm trong cả năm 2024. Như vậy, nhu cầu dầu thô của Trung Quốc có thể đã đạt đỉnh và có thể bước vào suy giảm cơ cấu ngay trong năm nay. Tình trạng tương tự cũng diễn ra với châu Âu và khu vực Bắc Mỹ.
Giữa bối cảnh như vậy, ngay cả một Ấn Độ đang phát triển nhanh cũng không thể bù đắp vào khoảng trống từ Trung Quốc. Mặc dù vẫn tăng, tăng trưởng tiêu thụ dầu của Ấn Độ không đồng đều, chậm lại trong năm nay do hạn chế về cơ sở hạ tầng. Không giống như Trung Quốc, sự mở rộng kinh tế của Ấn Độ phụ thuộc nhiều vào dịch vụ hơn là các lĩnh vực thâm dụng dầu mỏ như xây dựng và hóa chất. Ấn Độ cũng đang bước vào giai đoạn điện khí hóa. Chính quyền nước này muốn thị phần xe điện đạt 1/3 doanh số bán ô tô mới vào năm 2030, tăng từ khoảng 5% hiện nay. Đồng thời, công nghệ năng lượng tái tạo tiếp tục rẻ hơn và tốt hơn, nên Ấn Độ về lâu dài cũng không bù đắp vào khoản giảm nhu cầu dầu mỏ từ Trung Quốc.
Diễn biến khiến cho giá dầu có thể đứng trước xu hướng ngày càng giảm mạnh hơn, và như vậy thì các nước lệ thuộc vào việc khai thác dầu mỏ lại càng phải tìm cách tăng cường khai thác để tăng nguồn thu. Cứ như thế, nguồn cung dầu ngày càng lớn hơn lại tạo thành tác động tương hỗ làm giảm giá dầu.