Nhảy đến nội dung
 

Từ võ sĩ đến tiến sĩ phá vỡ định kiến trên đất Nhật - Báo VnExpress

- Đặt xuống niềm đam mê với võ thuật, hoàn thành việc nghiên cứu tiến sĩ ngành xây dựng ở Nhật Bản, lúc đó, ông xác định con đường tiếp theo của mình là gì?

- Sau khi bảo vệ xong luận án tiến sĩ, tôi được mời làm công tác nghiên cứu và giảng dạy tại Đại học Tokyo. Một lựa chọn an toàn, danh giá. Nhưng trong thời gian đó, tôi giữ vai trò Chủ tịch Hội Thanh niên Việt Nam tại Nhật, thường xuyên làm phiên dịch, hỗ trợ các đoàn công tác từ trong nước sang. Nhờ vậy, tôi có cơ hội lắng nghe, quan sát và nhận ra: trong nước đang rất thiếu người hiểu thực tiễn thi công, thiếu cả những kỹ sư có kinh nghiệm triển khai dự án lớn.

Tôi bắt đầu lo. Chương trình học ở đại học Tokyo thiên về lý thuyết chuyên sâu, rất hàn lâm. Nếu chỉ quanh quẩn ở giảng đường, tôi sẽ không đủ khả năng đóng góp vào các công việc triển khai các dự án hạ tầng lớn khi trở về.

Trong khi đó, tôi đã có cơ hội chứng kiến và trực tiếp tham gia vào những câu chuyện thần kỳ, tưởng chừng như không thể nhưng người Nhật đã làm bình thường như thi công tuyến metro mới đi vào bên dưới nhà ga hàng không đang vận hành, đào hầm xuyên đáy biển từ hai phía cho hai mũi khoan gặp nhau dưới đáy biển...

Một quan sát thực tế rõ nhất với tôi thời điểm đó là hệ thống giao thông công cộng vượt trội của Nhật Bản. Suốt những năm sống tại Nhật, tôi chưa từng sở hữu một chiếc xe máy hay ôtô. Mọi nhu cầu đi lại hoàn toàn bằng metro và tàu điện. Tôi ao ước một ngày nào đó, Việt Nam cũng có hệ thống metro hiện đại như vậy. Từ những buổi tiếp xúc, quan sát, tôi thấy rõ đất nước đang khao khát thay đổi, và cần những chuyên gia để xoá dần khoảng cách đi sau các nước phát triển hàng chục năm.

Tôi nhận ra, nếu mình chỉ quanh quẩn ở giảng đường thì không thể tạo ra đóng góp vào việc triển khai các dự án thực tế khi trở về. Phương pháp luận, kiến thức chuyên sâu đã đủ, tôi quyết định dừng việc nghiên cứu và giảng dạy tại Đại học Tokyo, chuyển sang tìm cơ hội làm việc thực tiễn. Tôi ứng tuyển vào Shimizu - một trong những tập đoàn xây dựng lâu đời nhất Nhật Bản.

- Ông là người đầu tiên khiến Shimizu phá vỡ truyền thống 210 năm để nhận nhân sự ngoại quốc vào biên chế tập đoàn. Ông đã làm được điều đó bằng cách nào?

- Bước ngoặt này đi kèm nhiều thử thách, tôi chính thức bước vào một cuộc chiến. Lúc mới vào làm, bằng tiến sĩ của tôi gần như không mang lại lợi thế với Shimizu trên phương diện kinh nghiệm thực tiễn. Tôi bị xếp lương như sinh viên mới ra trường. Thu nhập giảm một nửa so với khi còn làm giảng viên. Giai đoạn 2005–2006, hầu như chưa tập đoàn xây dựng Nhật nào chấp nhận người nước ngoài làm nhân viên chính thức.

Tôi mất 7 năm để vào được biên chế công ty, để chứng minh rằng một người có học vị tiến sĩ cũng có những ưu thế, nếu biết vận dụng phương pháp luận, kỹ năng nghiên cứu, giải quyết vấn đề và phát triển cái mới.

Tôi chủ động tìm tòi, học nhiều hơn những gì được giao - vừa để chứng minh năng lực, vừa để mở rộng kiến thức thực tế. Tôi tự quan sát, đề xuất giải pháp và phát triển công nghệ trong xây dựng. Nhiều phát minh đã được áp dụng vào quy trình chung của Shimizu đến ngày nay.

Một trong những phát minh đầu tiên của tôi được áp dụng là thiết bị kiểm tra chất lượng bê-tông bằng vi sóng. Trong ngành xây dựng, ngày nay người ta thường dùng bê tông tươi trộn sẵn ở nhà máy, nhưng đôi khi lượng nước nhiều hơn thiết kế. Nhưng nếu nước nhiều quá thì cường độ và độ bền lâu sẽ không đạt. Vấn đề là khi bê-tông được chở tới công trường, không ai biết trong đó có bao nhiêu nước. Tôi mới nghĩ đến nguyên lý của lò vi sóng: cơm nhiều thì cần hâm lâu hơn, vì phân tử nước trong thức ăn sẽ hấp thụ và triệt tiêu sóng. Từ đó, tôi phát minh ra một thiết bị phát sóng đo lượng nước trong bê tông tươi. Phát minh này được đưa vào hệ thống quản lý chất lượng của Shimizu, dùng để đấu thầu và kiểm soát thi công đến ngày nay.

Nhờ những đóng góp đó, tôi được vào biên chế và nâng bậc lên vị trí quản lý. Nhưng đến lúc đó, định kiến vẫn chưa chấm dứt.

Có lần, tôi với tư cách đại diện phòng kỹ thuật đến kiểm tra chất lượng thi công tại công trường, tôi phát hiện ra vấn đề nhưng kỹ sư trưởng tại hiện trường gạt đi: "Tôi không cần anh". Tôi vẫn bình tĩnh giải thích, làm đúng phần việc của mình. Ngày hôm sau, mở ván khuôn, kết cấu bị lỗi đúng như tôi cảnh báo. Người kỹ sư kia bị kỷ luật nội bộ.

Tôi nhận ra, nếu mình làm đúng, đến nơi đến chốn và dám chịu trách nhiệm, thì sẽ thay đổi cách nhìn của họ. Với tôi, hành trình đó là một cuộc chiến âm thầm, dùng kết quả nói lên sự thật. Sau tôi, nhiều người nước ngoài khác vào Shimizu và được nhận chính thức ngay từ đầu.

Tôi luôn làm mọi thứ với tinh thần của một võ sĩ.

Các môn võ thường gắn với chữ "đạo": Nhu đạo, Triệt quyền đạo, Thái cực đạo (Taekwondo), Không thủ đạo (Karate-do) - con đường của sự kỷ luật, kiên trì và ý chí nghị lực. Võ sĩ Nhật thì có cụm từ là "tinh thần samurai" - không được phép bỏ cuộc, khi đã bước lên sàn đấu thì phải đánh như thể đó là trận cuối cùng trong đời, đánh tới khi nào gục xuống thì thôi.

Tôi cũng nhận ra dùng võ thuật không chỉ học cách chiến thắng đối thủ, mà học cách chiến thắng chính mình. Có lần thầy bắt tôi đứng tấn suốt 60 phút. Ban đầu, cơ thể muốn bỏ cuộc. Nhưng vượt qua được, mình bỗng hiểu rằng, nếu kiểm soát được cơ thể, mình cũng sẽ kiểm soát được suy nghĩ, phản ứng, sự kiên nhẫn.

Tôi từng buộc hai tay trước ngực để tập đá hàng nghìn lần vào thân cây nhằm tách chuyển động của thân trên với chuyên động của đôi chân và ánh mắt - một cách luyện để vô hiệu hoá sự phán đoán của đối phương. Tôi rèn tâm lý bằng cách đi chân trần trên sỏi nhọn nhưng không nhăn mặt hay một mình đi qua nghĩa địa giữa đêm. Những bài tập đó giúp tôi giấu cảm xúc, chịu đau đớn mà không biểu lộ cảm xúc, đặc biệt là không bỏ cuộc.

Tôi mang tinh thần "samurai" vào mọi khía cạnh từ rèn luyện, nghiên cứu tới làm việc.

- Gần 20 năm sinh sống và nỗ lực ở Nhật, điều gì khiến ông một lòng giữ quốc tịch Việt Nam?

- Quyết định không nhập tịch đúng là đã khiến tôi gặp rất nhiều bất lợi. Là người ngoại quốc tôi chỉ được ký hợp đồng lao động từng năm, đối mặt nguy cơ bị cắt hợp đồng nếu không đạt yêu cầu, dẫn đến việc không gia hạn được visa. Điều này tạo ra sự bất ổn và giới hạn thời gian làm việc. Nếu nhập quốc tịch Nhật, tôi có thể làm bất kỳ công việc nào mà không lo giới hạn thị thực.

Tuy nhiên, điều đó đối với tôi không phải vấn đề. Với hàng chục năm sinh sống, đóng thuế, làm việc tại Nhật, việc xin quốc tịch với tôi là hoàn toàn khả thi. Nếu muốn, tôi chỉ cần nộp hồ sơ, gần như chắc chắn được chấp thuận nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ tới.

Tôi còn mơ ước trở về đóng góp bằng những gì mình đã được học. Được góp sức bằng quốc tịch Việt Nam tôi sẽ cảm thấy tự hào hơn.

- Ngoài việc đào sâu nghiên cứu kiến thức, kinh nghiệm trong ngành xây dựng ở Nhật Bản, ông còn chuẩn bị gì cho mục tiêu quay về?

- Hai tài sản lớn nhất tôi mang về là tri thức thực tiễn và các mối quan hệ, cả với người Việt Nam lẫn người Nhật.

Gần 10 năm sau khi rời Đại học Tokyo, tôi đào sâu trong thị trường xây dựng Nhật Bản, học cách vận hành thực tế.

Song song đó, tôi tích cực xây dựng mạng lưới. Từ thời còn làm Chủ tịch Hội thanh niên - sinh viên Việt Nam tại Nhật Bản, đến khi giữ vai trò Phó Chủ tịch Hội người Việt tại Nhật, hay Trưởng nhóm phụ trách quan hệ Việt Nam - Nhật trong các hiệp hội kỹ sư xây dựng Nhật Bản, hội đồng nghiên cứu..., tôi có cơ hội làm quen và giữ liên lạc với nhiều người. Nhiều bạn học nay là hiệu trưởng, viện trưởng, lãnh đạo các cơ quan nhà nước. Nhiều bạn Nhật từng là đồng nghiệp, khi tôi cần tài liệu hoặc hỗ trợ, họ vẫn sẵn sàng giúp đỡ.

Mạng lưới không tự nhiên mà có, càng không thể xây trong một vài năm. Bởi vậy, tôi cho rằng càng ở lâu, càng tích luỹ được nhiều giá trị trước khi trở về. Cá nhân tôi chọn trở về, nhưng tôi không nghĩ những người Việt chưa trở về là không có đóng góp. Thế giới bây giờ đã phẳng. Có những cuộc họp hội đồng chuyên gia của thành phố, có người từ Đức, Pháp, Singapore vẫn tham gia đều đặn - họ đều là chuyên gia người Việt sống ở nước ngoài. Họ vẫn cống hiến, chỉ là theo cách khác.

Tôi trở về vì thấy mình đã đủ đầy: cả kinh nghiệm thực tiễn lẫn một mạng lưới đủ vững để bắt tay vào làm điều gì đó cho đất nước. Nhưng tôi tin, dù ở đâu, điều quan trọng nhất vẫn là giữ được sợi dây gắn bó với Tổ quốc - không nhất thiết phải đo bằng khoảng cách địa lý.

 
 
 
logo
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN

GPĐKKD: 0103884103 do sở KH & ĐT TP Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Địa chỉ: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season,  47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

MIỀN BẮC

Địa chỉ Showroom: D11-47 KĐT Geleximco Lê Trọng Tấn, Hà Đông, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

MIỀN NAM

Địa chỉ VPGD: 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn