Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: Các nhà khoa học không chỉ nghiên cứu “Việt Nam là ai trong quá khứ”, mà còn đang góp phần trả lời câu hỏi “Việt Nam sẽ là ai trong tương lai”.
Tổng Bí thư Tô Lâm sáng nay tiếp đoàn đại biểu tham dự hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 7.
Tại buổi tiếp, Tổng Bí thư cho rằng sự có mặt đông đảo của các nhà Việt Nam học trong nước và quốc tế thể hiện một thông điệp quan trọng: Việt Nam không chỉ là đối tượng nghiên cứu, mà đã trở thành một đối tác trí tuệ của các nhà Việt Nam học.
Tổng Bí thư nhấn mạnh hai dấu mốc lịch sử. Đó là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 - dấu mốc lịch sử mang tính bước ngoặt của dân tộc, và sự nghiệp Đổi mới - tạo ra bước phát triển nhảy vọt, đưa Việt Nam từ một đất nước nghèo nàn, bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, trở thành nền kinh tế năng động, hội nhập sâu, tham gia tích cực vào các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Tương lai của thế hệ mai sau không bị đánh đổi vì lợi ích trước mắt
Đánh giá chủ đề hội thảo "Việt Nam: phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới", Tổng Bí thư cho rằng hội thảo đặt đúng câu hỏi có tính sống còn.
Đó là làm thế nào để phát triển đất nước nhanh mà vẫn giữ vững ổn định chính trị - xã hội; làm thế nào để tăng trưởng kinh tế mà không đánh đổi công bằng xã hội; làm thế nào để hiện đại hóa đất nước mà không làm tổn hại đến môi trường sinh thái và các giá trị văn hóa, đạo lý của con người Việt Nam; làm thế nào để “hòa nhập mà không hòa tan” vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế quốc tế và nền văn minh nhân loại, để nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
"Với chúng tôi, phát triển nhanh và bền vững là một thực thể thống nhất. Tăng trưởng chỉ có ý nghĩa nếu từng người dân được hưởng thành quả phát triển theo cách công bằng, an toàn và nhân văn; chất lượng cuộc sống thực của người dân được nâng cao; không ai bị bỏ lại phía sau; tương lai của thế hệ mai sau không bị đánh đổi để đáp ứng lợi ích trước mắt của thế hệ hôm nay. Do đó, chúng tôi chủ trương phát triển dựa trên 3 trụ cột gắn bó chặt chẽ với nhau", Tổng Bí thư khẳng định.
Thứ nhất, phát triển thể chế, chính sách, quản trị quốc gia theo hướng tự chủ chiến lược, hiện đại, minh bạch, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả; Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, một nhà nước vừa kiến tạo phát triển, vừa bảo đảm công bằng xã hội, vừa kiên quyết phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm. Đây là trọng tâm chính trị.
Thứ hai, phát triển con người Việt Nam toàn diện thông qua giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, văn hóa. Đây được coi là những yếu tố căn cốt, là nguồn lực trực tiếp của phát triển.
Tổng Bí thư khẳng định, tài nguyên quý nhất của Việt Nam không phải là khoáng sản, không phải là vị trí địa - chiến lược, mà chính là 106 triệu người Việt Nam hiện nay, những người cần cù, sáng tạo, giàu lòng yêu nước, giàu ý thức cộng đồng, ham học hỏi và biết vươn lên trong hoàn cảnh khó khăn. Nếu không giải phóng và phát huy tối đa sức mạnh trí tuệ, đạo đức, nhân cách, tinh thần trách nhiệm xã hội của mỗi người Việt Nam, chúng tôi sẽ khó có thể vươn tới mục tiêu đề ra.
Thứ ba, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế số, gắn với khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Việt Nam ý thức rất rõ trách nhiệm của mình trước thách thức biến đổi khí hậu, nước biển dâng, suy thoái đa dạng sinh học, cạn kiệt tài nguyên...
Tổng Bí thư nêu rõ, phát triển bền vững không chỉ là vấn đề kinh tế và môi trường. Đó còn là vấn đề văn hóa, xã hội, con người, đạo lý. Một xã hội phát triển bền vững là một xã hội coi trọng chân lý, lẽ phải, công bằng, nhân ái; một xã hội mà người già được tôn trọng, trẻ em được bảo vệ, phụ nữ được trao cơ hội bình đẳng, người yếu thế được che chở. Một xã hội mà niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với chế độ, đối với tương lai luôn vững chắc.
Đến Việt Nam nhiều hơn, ở lại Việt Nam lâu hơn
Tổng Bí thư đánh giá cao việc hội thảo không chỉ thảo luận về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật Việt Nam mà còn đi sâu vào những chủ đề có tính cấu trúc, có ý nghĩa chiến lược đối với tương lai đất nước như: thể chế chính sách, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, y tế, giáo dục, kinh tế, tư tưởng và chính sách xã hội.
Các nhà khoa học không chỉ nghiên cứu “Việt Nam là ai trong quá khứ”, mà còn đang góp phần trả lời câu hỏi “Việt Nam sẽ là ai trong tương lai”. Theo Tổng Bí thư, đó là một đóng góp vừa mang giá trị học thuật vừa mang giá trị chiến lược.
Tổng Bí thư chia sẻ, Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới với tư duy mới, nhưng với những giá trị không bao giờ thay đổi.
Một là, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ là thiêng liêng, là bất khả xâm phạm. Không một sự phát triển nào có ý nghĩa nếu đánh đổi nền độc lập mà các thế hệ cha anh đã phải hy sinh xương máu để giành lại.
Hai là, hạnh phúc của nhân dân phải được đo bằng nhà ở, bằng giáo dục, bằng y tế, bằng môi trường sống trong lành, bằng cơ hội tạo lập cuộc sống hoàn thiện hơn cho mỗi gia đình, bằng niềm tin rằng con cháu sẽ sống tốt hơn chúng ta hôm nay. Một đảng cầm quyền chỉ có thể xứng đáng với nhân dân nếu mọi quyết sách đều hướng tới nâng cao đời sống thực của người dân.
Ba là, sức mạnh Việt Nam trước hết là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Lịch sử đã chứng minh: khi cả dân tộc đồng lòng, không có thế lực nào khuất phục được Việt Nam.
Trong quá trình hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước luôn lắng nghe các ý kiến phản biện khoa học độc lập, nghiêm túc, thiện chí. Những nghiên cứu có giá trị, giàu hàm lượng thực tiễn, tầm nhìn dài hạn đều là nguồn tham khảo quý báu cho chúng tôi trong xây dựng chiến lược phát triển đất nước.
Tổng Bí thư mong muốn cộng đồng các nhà Việt Nam học tiếp tục đồng hành, không chỉ bằng tình cảm mà bằng tri thức khoa học, bằng phân tích chính sách dựa trên chứng cứ khoa học, bằng khuyến nghị cụ thể, thiết thực, có thể triển khai được.
Tổng Bí thư cũng đề nghị giới nghiên cứu quốc tế, các nghiên cứu sinh, các nhà khoa học đến Việt Nam nhiều hơn, ở lại Việt Nam lâu hơn, làm việc cùng các đồng nghiệp Việt Nam bình đẳng hơn và lắng nghe tiếng nói từ cơ sở, từ địa phương, từ cộng đồng, chứ không chỉ nhìn Việt Nam qua các số liệu tổng hợp.















