Thực trạng chung về chất thải rắn sinh hoạt, thứ tự ưu tiên trong quản lý

Ở Việt Nam, chất thải rắn sinh hoạt ngày một tăng. Ước tính lượng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) phát sinh ở các đô thị trên toàn quốc tăng trung bình 10-16% mỗi năm.
Thực trạng chung về chất thải rắn sinh hoạt trên thế giới, Việt Nam và thứ tự ưu tiên trong quản lý CTRSH
Trên thế giới, theo thống kê của UNEP, khối lượng chất thải rắn đô thị được dự đoán sẽ tăng từ 2,1 tỷ tấn vào năm 2023 lên 3,8 tỷ tấn vào năm 2050. Nếu không có hành động quản lý chất thải rắn hiệu quả thì chi phí quản lý chất thải rắn hàng năm trên toàn cầu có thể tăng đến 640,3 tỷ USD.
Báo cáo cũng chỉ ra, năm 2020, chỉ có 19% chất thải có khả năng tái chế được tái chế và nếu ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn bằng cách áp dụng biện pháp giảm thiểu chất thải, thực hành kinh doanh bền vững và quản lý chất thải đầy đủ, có thể đạt được lợi nhuận ròng là 108,5 tỷ USD mỗi năm với việc làm gia tăng nhanh chóng tỷ lệ tái chế nói trên.
Về đốt rác phát điện, ở các nước thu nhập cao, khoảng 22% chất thải đô thị được đốt phát điện, trong khi ở toàn cầu chỉ xấp xỉ 11% CTRSH được xử lý bằng đốt rác phát điện.
Cũng theo S&P Global thì Hoa Kỳ - EU - Nhật đều có tỷ lệ đốt rác phát điện từ khoảng 20% trở lên. Tuy nhiên, việc đốt rác phát điện chỉ được thực hiện với quá trình phân loại rác nghiêm ngặt.
Theo chuẩn EU tại Chỉ thị khung pháp luật về chất thải (Waste Framework Directive), Đức đã quy định về thứ tự ưu tiên trong xử lý chất thải như sau: giảm thiểu → tái sử dụng → tái chế → phục hồi năng lượng (đốt) → chôn lấp. Theo Luật quản lý chất thải của Đức, từ năm 2015, chất thải bắt buộc phải được phân loại thành chất thải hữu cơ, giấy, kim loại, nhựa và thủy tinh. Theo đó, tỷ lệ tái chế của Đức đạt khoảng 67-70%, chỉ còn khoảng 30% rác được xử lý bằng cách đốt rác phát điện. Đức áp dụng hệ thống EPR để quản lý chất thải rắn phát sinh từ sản phẩm, bao bì sau quá trình tiêu dùng, trong đó phổ biến là sử dụng các công cụ đặt cọc hoàn trả (DRS) đối với bao bì và công cụ thu hồi sản phẩm thải bỏ.
Ở Nhật, Luật Quản lý chất thải và Vệ sinh công cộng đã quy định việc phân loại, lưu giữ, thu gom và tái chế là bắt buộc đối với hộ gia đình và chính quyền địa phương. Đốt chỉ được thực hiện khi tuân thủ quy định môi trường và không thể tái chế.
Theo Bộ Môi trường Nhật Bản, tổng số lượng chất thải tái chế năm tài chính 2022 là 7,91 triệu tấn, đạt tỷ lệ tái chế là 19,6%; tỷ lệ đốt rác phát điện khoảng gần 62%. Điều này cho thấy, Nhật Bản không thực hiện compost đối với chất thải hữu cơ mà đem đi thiêu đốt.
Khác với Hàn Quốc áp dụng hệ thống volume‑based waste fee (VBWF) từ năm 1995: hộ gia đình sử dụng túi rác tiêu chuẩn trả trước, phân loại rác theo hướng dẫn địa phương; rác tái chế thu riêng, không bị tính phí. Báo cáo năm 2017 cho thấy, tái chế & compost chiếm 61,6% tổng chất thải; đốt rác phát điện chiếm 24,9%; chôn lấp chiếm 13,5%. Hàn Quốc áp dụng EPR từ những năm 1990 với công cụ đặt cọc hoàn trả và chuyển sang công cụ thu hồi sản phẩm thải bỏ từ năm 2003 để thúc đẩy tỷ lệ thu gom, tái chế chất thải rắn sinh hoạt mà phần tái chế chủ yếu đến từ sản phẩm, bao bì thải bỏ.
Như vậy, có thể thấy, việc phân loại rác tại nguồn đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy hoạt động tái chế và thiêu đốt. Nhưng giải pháp thiêu đốt thu hồi năng lượng là giải pháp cuối cùng khi không thể tái chế.
Ở Việt Nam, chất thải rắn sinh hoạt ngày một tăng. Ước tính, lượng CTRSH phát sinh ở các đô thị trên toàn quốc tăng trung bình 10-16% mỗi năm. Hiện nay, tổng lượng CTRSH phát sinh trên toàn quốc là hơn 64.018 tấn/ngày, trong đó lượng CTRSH phát sinh tại khu vực đô thị là 35.624 tấn/ngày, tại khu vực nông thôn là 28.394 tấn/ngày. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt khu vực đô thị của các địa phương đạt từ 62% đến hơn 90%.
Tại Hà Nội, tổng lượng CTRSH được thu gom là hơn 7.300 tấn/ngày, tỷ lệ thu gom, vận chuyển rác thải phát sinh trong ngày trên địa bàn các quận đạt 100%, trên địa bàn các huyện, thị xã Sơn Tây từ 95% đến 100%. Trong đó, xử lý bằng phương pháp đốt có thu hồi năng lượng phát điện chiếm tỷ lệ khoảng 59% tổng lượng rác. Khối lượng rác thải còn tồn đọng trong nước ước tính khoảng 7.400 tấn đến 8.400 tấn.
Hà Nội đã tích cực kêu gọi đầu tư các dự án xử lý CTRSH theo quy hoạch bằng công nghệ tiên tiến, hiện đại, mục đích giảm dần tỷ lệ chôn lấp trực tiếp CTRSH xuống dưới 10% vào năm 2025.
Đến nay, Thành phố Hà Nội có 2 nhà máy đốt rác phát điện đã và đang đầu tư xây dựng với tổng công suất 6.250 tấn/ngày, gồm: Nhà máy điện rác Sóc Sơn tại Khu liên hợp xử lý chất thải Nam Sơn, huyện Sóc Sơn đã đi vào hoạt động từ ngày 6/5/2022 với công suất 4.000 tấn/ngày và Nhà máy điện rác Seraphin tại Khu xử lý chất thải rắn Xuân Sơn, thị xã Sơn Tây với công suất 2.250 tấn/ngày. Chuẩn bị đầu tư hoặc đi vào hoạt động 2 dự án đốt rác phát điện với tổng công suất đạt 2.550 tấn/ngày tại Khu Xử lý chất thải Châu Can và Nhà máy Xử lý chất thải Núi Thoong.
Như vậy, tổng công suất đốt rác của các nhà máy kể trên, khi đi vào hoạt động là khoảng 8.500 tấn/ngày - lớn hơn lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trên địa bàn thu gom được.
Theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2020, đã áp dụng chính sách về định giá thu gom, vận chuyển xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo lượng (volume‑based waste fee (VBWF) để quản lý CTRSH, về nguyên tắc được phân loại thành (1) chất thải có thể tái chế; (2) chất thải thực phẩm; (3) chất thải khác.
Theo quy định chi tiết Luật bảo vệ môi trường và hướng dẫn của Bộ NN&MT, chất thải khác được phân loại thành (i) chất thải nguy hại; (ii) chất thải cồng kềnh; (iii) chất thải khác còn lại. Như vậy, CTRSH về nguyên tắc được phân loại thành 5 loại là (1) chất thải có thể tái chế; (2) chất thải thực phẩm; (3) chất thải nguy hại; (4) chất thải cồng kềnh; (5) chất thải khác còn lại.
Chất thải thực phẩm được chứa đựng vào túi màu xanh, chất thải còn lại khác (và chất thải chưa được phân loại) được chứa đựng vào túi màu xám để chuyển giao cho đơn vị thu gom. Đơn vị thu gom phân phối túi đựng chất thải nêu trên theo quy định của UBND cấp tỉnh để bù đắp chi phí thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH. Chất thải có thể tái chế và chất thải nguy hại nếu được phân loại và để riêng thì được chuyển giao miễn phí cho đơn vị thu gom (tức là không phải đựng vào túi xanh hoặc túi xám). Chất thải cồng kềnh được thu gom theo quy định của địa phương.
Để thúc đẩy hoạt động tái chế và tạo cơ chế tài chính trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt, Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã áp dụng cơ chế EPR tại Điều 54 và 55 về trách nhiệm thu gom, tái chế sản phẩm, bao bì sau thải bỏ của nhà sản xuất, nhập khẩu.
Hà Nội đang thí điểm phân loại chất thải thành 4 loại gồm (1) chất thải có thể tái chế; (2) chất thải cồng kềnh; (3) chất thải nguy hại; (4) chất thải khác còn lại (bao gồm chất thải thực phẩm). Có thể thấy, Hà Nội đang thiên về tái chế và đốt rác phát điện như ở Nhật Bản.
Tựu chung lại, việc đốt rác phát điện là một xu hướng phát triển trên thế giới để giải quyết lượng CTRSH không được tái sử dụng, tái chế hoặc compost (làm phân hữu cơ). Theo đó, ở các nước cũng như nước ta, thứ tự ưu tiên trong quản lý chất thải như sau: giảm thiểu → tái sử dụng → tái chế và compost → đốt phát điện → chôn lấp. Để thực hiện được các biện pháp này, các nước đã ứng dụng và phát triển hệ thống phân loại chất thải rắn sinh hoạt theo lượng (volume‑based waste fee (VBWF) và hệ thống trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR).
1. Khái quát về EPR và EPR ở Việt Nam
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) là một cách tiếp cận chính sách môi trường, yêu cầu trách nhiệm của nhà sản xuất đối với các sản phẩm của mình được mở rộng đến giai đoạn thải bỏ của sản phẩm, theo đó nhà sản xuất phải thu gom, tái chế, xử lý các sản phẩm thải bỏ này.
Nếu như trước đây, nhà sản xuất chỉ có trách nhiệm đối với sản phẩm của mình đến giai đoạn tiêu dùng (chịu trách nhiệm về chất lượng, an toàn của sản phẩm, trách nhiệm bảo hành, bồi thường nếu sản phẩm gây ra thiệt hại) mà không chịu trách nhiệm đối với sản phẩm sau khi tiêu dùng, thải bỏ.
EPR buộc nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm thu gom, xử lý sản phẩm, bao bì bị thải bỏ sau tiêu dùng. Thể hiện trách nhiệm của nhà sản xuất được mở rộng đến giai đoạn thải bỏ của sản phẩm, bao bì. Các sản phẩm, bao bì này chủ yếu bắt gặp trong chất thải rắn sinh hoạt. Trước khi áp dụng EPR thì trách nhiệm thu gom, xử lý CTRSH do Nhà nước thực hiện, kinh phí từ ngân sách nhà nước. Khi EPR buộc nhà sản xuất chịu trách nhiệm thu gom, tái chế và xử lý các sản phẩm, bao bì này, nghĩa là chuyển trách nhiệm thu gom, xử lý, tái chế từ nhà nước sang nhà sản xuất, làm giảm gánh nặng tài chính của nhà nước; thực hiện đúng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.
Có nhiều cách thức (công cụ) để thực hiện EPR như:
Một là: Yêu cầu thu hồi sản phẩm thải bỏ (Take-back) để thực hiện trách nhiệm, ví dụ: nhà sản xuất hoặc nhà bán lẻ phải có trách nhiệm thu gom sản phẩm trong giai đoạn cuối của vòng đời sản phẩm.
Hai là: Các công cụ kinh tế và dựa trên thị trường tạo động lực tài chính để thực hiện chính sách EPR, bao gồm:
(i) Đặt cọc hoàn trả (Deposit-refund): khoản thanh toán ban đầu (đặt cọc) được thực hiện khi mua hàng và được hoàn trả toàn bộ hoặc một phần khi sản phẩm được trả về địa điểm xác định.
(ii) Phí xử lý trả trước (Advanced Disposal Fees - ADF): phí đánh vào một số sản phẩm nhất định khi mua dựa trên chi phí thu gom và xử lý ước tính (tức là nhà sản xuất phải chi trả cho dịch vụ thu gom và xử lý các sản phẩm sau khi thải bỏ).
(iii) Thuế nguyên liệu (Material taxes): đánh thuế nguyên liệu thô (hoặc nguyên liệu khó tái chế, có đặc tính độc hại, v.v.) nhằm tạo động cơ khuyến khích sử dụng nguyên liệu thứ cấp (tái chế) hoặc ít độc hại hơn.
(iv) Thuế/trợ cấp kết hợp thượng nguồn (Upstream combination tax/subsidy -UCTS): thuế do nhà sản xuất trả sau đó được sử dụng để trợ cấp cho việc xử lý chất thải. Nó thúc đẩy nhà sản xuất thay đổi nguyên liệu đầu vào và thiết kế sản phẩm của họ, đồng thời cung cấp cơ chế tài chính để hỗ trợ tái chế và xử lý.
Ba là: Các quy định và tiêu chuẩn thực hiện như hàm lượng tái chế tối thiểu có thể khuyến khích thu hồi các sản phẩm hết hạn sử dụng. Khi được sử dụng kết hợp với thuế, những tiêu chuẩn như vậy có thể tăng cường khuyến khích việc thiết kế lại sản phẩm. qua các chương trình tự nguyện.
Bốn là: Các công cụ dựa trên thông tin nhằm hỗ trợ gián tiếp các chương trình EPR bằng cách nâng cao nhận thức cộng đồng. Các biện pháp có thể bao gồm các yêu cầu báo cáo, ghi nhãn sản phẩm và thành phần, truyền đạt tới người tiêu dùng về trách nhiệm của nhà sản xuất và việc phân loại chất thải, đồng thời thông báo cho người tái chế về nguyên liệu được sử dụng trong sản phẩm. Với ý nghĩa như vậy, EPR sẽ thúc đẩy nhà sản xuất thay đổi thiết kế, sản xuất sạch hơn nhằm giảm dấu chân sinh thái… do đó sẽ hình thành mô hình kinh tế tuần hoàn trong hoạt động kinh tế của quốc gia mình.
Tại Việt Nam, năm 2004, EPR lần đầu tiên được Đảng chính thức đưa vào Nghị quyết của Bộ chính trị với yêu cầu “Từng bước áp dụng các biện pháp buộc các cơ sở sản xuất, nhập khẩu phải thu hồi và xử lý sản phẩm đã qua sử dụng do mình sản xuất, nhập khẩu”. Sau đó, được thể chế hoá tại Luật BVMT từ năm 2005 với quy định tại Điều 67 về “Thu hồi, xử lý sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ”, và tiếp tục được quy định trong Luật BVMT năm 2014 tại Điều 87 về Thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ, nhưng các quy định này chỉ mang tính tự nguyện, theo đó, chính sách này chưa được quy định đầy đủ và cũng chưa được thực hiện trên thực tế. Đến Luật BVMT năm 2020 đã thay đổi cách tiếp cận và quy định cụ thể, rõ ràng hơn với hai loại trách nhiệm.
Loại trách nhiệm thứ nhất quy định tại Điều 54 trách nhiệm tái chế sản phẩm bao bì có giá trị tái chế (áp dụng công cụ “yêu cầu thu hồi sản phẩm thải bỏ - take back”). Loại trách nhiệm thứ hai trách nhiệm xử lý chất thải (trách nhiệm thu gom, xử lý đối với sản phẩm, bao bì không có giá trị tái chế, khó thu gom tái chế hoặc chứa chất độc hại) (áp dụng công cụ Phí xử lý trả trước (Advanced Disposal Fees - ADF)).
Đối với loại trách nhiệm thứ nhất, nhà sản xuất, nhập khẩu có thể thực hiện bằng cách thức: (1) tự thu gom, tái chế; (2) thuê đơn vị tái chế; (3) ủy quyền cho bên thứ ba thực hiện (4) hoặc kết hợp các cách thức nêu trên. Trường hợp không thực hiện các cách thức nêu trên thì (5) đóng góp tài chính vào Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam để hoàn thành trách nhiệm EPR của mình. Hiện nay tỷ lệ tái chế bắt buộc đã được quy định tại Phụ lục XXII Nghị định 08/2022/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 05/2025/NĐ-CP). Trường hợp lựa chọn đóng góp tài chính thì mức đóng góp được quy định tại Phụ lục XIa Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT (được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 07/2025/TT-BTNMT).
Đối với loại trách nhiệm thư hai, yêu cầu nhà sản xuất, nhập khẩu đóng tiền vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để hoàn thành EPR với mức đóng góp quy định tại Phụ lục XXIII Nghị định 08/2022/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 05/2025/NĐ-CP).
Thực hiện quy định nêu trên, nhà sản xuất, nhập khẩu đã thực hiện loại trách nhiệm thứ hai, đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam từ năm 2022 để hỗ trợ hoạt động thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt và thu gom, xử lý vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật. Đối với loại trách nhiệm thứ nhất, nhà sản xuất bắt đầu kê khai, tổ chức thực hiện hoặc đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam từ năm nay (2025) để hỗ trợ tái chế sản phẩm, bao bì.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định về quản lý và sử dụng khoản đóng góp tài chính nêu trên nên chưa có cơ sở để hỗ trợ hoạt động thu gom, tái chế, xử lý sản phẩm, bao bì, chất thải rắn sinh hoạt.
2. EPR đã thúc đẩy hiệu quả quản lý chất thải rắn sinh hoạt như thế nào?
Theo báo cáo “What a Waste 2.0” của Ngân hàng Thế giới (WB) thì lượng chất thải rắn đô thị hằng năm là 2,01 tỷ tấn, trong ít nhất 33% không được quản lý theo cách an toàn với môi trường. Chỉ khoảng 48% chất thải ở các thành phố và 26% ở khu vực nông thôn được thu gom ở các nước có thu nhập thấp; trong đó chỉ có 4% được tái chế. Nhìn chung, 13,5% rác thải toàn cầu được tái chế và 5,5% được ủ phân.
Trong khi đó, chính quyền địa phương thường gặp khó khăn trong việc quản lý chất thải rắn sinh hoạt và chi từ ngân sách để quản lý chất thải rắn sinh hoạt ngày càng lớn. Ước tính toàn cầu cho thấy chi phí quản lý chất thải rắn đô thị có thể tăng từ 205 tỷ đô la vào năm 2012 lên khoảng 375 tỷ đô la vào năm 2025.
Ở các nước đang phát triển, khoảng 20% đến 50% ngân sách hàng năm của chính quyền địa phương được phân bổ cho quản lý chất thải; tỷ lệ chất thải từ sản phẩm, bao bì chiếm gần 36% trong chất thải rắn sinh hoạt[25]. Trường hợp áp dụng EPR, gánh nặng tài chính này sẽ được chuyển cho nhà sản xuất, theo đúng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền. Đồng thời làm gia tăng tỷ lệ thu gom, tái chế; là giải pháp căn cơ để khắc phục sự thất bại của phương pháp xử lý chất thải rắn sinh hoạt truyền thống như chôn lấp hoặc đốt rác do quỹ đất ngày càng ít và gây ra ô nhiễm môi trường (đất, nước, không khí), lãng phí tài nguyên.
Ngoài ra, EPR thúc đẩy thiết kế vì môi trường (DfE) và đổi mới sản phẩm. Với tư duy tối ưu hóa chi phí, nhà sản xuất sẽ tìm cách giảm bớt chi phí thực hiện EPR, một cách hợp pháp, thông qua việc thiết kế sản phẩm thân thiện với môi trường như giảm bớt vật liệu mà vẫn giữ được tính năng của sản phẩm; chuyển sang sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường không thuộc diện EPR; làm cho sản phẩm bền hơn, kéo dài vòng đời sản phẩm, dễ thu gom, tái chế hơn.
EPR còn giúp nâng cao hiệu quả tài nguyên và quản lý chất thải, bằng cách buộc nhà sản xuất (lực lượng có tiềm lực) phải thu gom, tái chế, xử lý sản phẩm, bao bì sau sử dụng đã đó khuyến khích phát triển cơ sở hạ tầng thu gom, phân loại và tái chế chất thải.
EPR là biện pháp để khép kín vòng đời vật liệu (tài nguyên) thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Nếu như trong nền kinh tế tuyến tính, các sản phẩm, bao bì sau tiêu dùng bị thải bỏ, phần lớn được chôn lấp, thì vật liệu đi từ quá trình khai thác (tài nguyên) được đưa vào sản xuất, đến tiêu dùng, thải bỏ cuối cùng là chôn lấp, làm cho vật liệu (tài nguyên) đó biến mất khỏi quá trình sản xuất, tiêu dùng, gây lãng phí tài nguyên vì nó không được tuần hoàn để tái sử dụng. EPR yêu cầu nhà sản xuất phải thu gom, tái chế sản phẩm, bao bì sau thải bỏ để tái tạo ra vật liệu (tài nguyên) quay vòng vào quá trình sản xuất, đã khép kín được vòng đời vật liệu (tài nguyên) này.
Kết quả thực hiện EPR ở các nước cho thấy:
Ở Đức, Pháp lệnh Bao bì và Luật về bao bì với việc áp dụng EPR đã thu được thành công lớn. Bộ Môi trường Liên bang Đức chịu trách nhiệm bảo vệ môi trường chỉ ra rằng việc tái chế bao bì đã tăng từ khoảng 2,85 triệu tấn năm 1991 lên 5,6 triệu tấn vào năm 2000 (Bộ Môi trường Liên bang Đức, 2008).
Đến năm 2005, mặc dù việc tái chế bao bì giảm nhẹ xuống còn 5,15 triệu tấn, nhưng điều đáng chú ý là tổng sự gia tăng tái chế tương ứng với việc giảm doanh số bán bao bì thực tế trên thị trường mặc dù doanh số bán lẻ cho người tiêu dùng liên tục tăng[29]. Từ năm 2017, tỷ lệ tái chế ở Đức đã đạt khoảng 67-70% và 30% đốt rác phát điện (như đã nêu ở trên). Điều này cho thấy rõ ràng rằng việc áp dụng chính sách EPR đã thành công trong việc ngăn chặn việc phát sinh rác thải bao bì ở Đức thông qua nỗ lực thiết kế lại các sản phẩm, bao bì từ nhà sản xuất cũng như nỗ lực thu gom, tái chế sản phẩm, bao bì sau tiêu dùng của họ.
Ở Hàn Quốc, sau khi thực hiện Chương trình đặt cọc hoàn trả và EPR triển khai Luật quản lý chất thải, lượng chất thải rắn sinh hoạt phải chôn lấp giảm nhanh chóng: năm 1982, hơn 96% chất thải rắn đô thị được xử lý tại bãi chôn lấp và tỷ lệ tái chế gần như bằng không. Nhờ sự kết hợp giữa chính sách nhất quán, dài hạn và việc thực hiện nghiêm túc, tỷ lệ rác thải sinh hoạt được chôn lấp đã giảm xuống còn 13,5% vào năm 2017.
Tái chế, đốt rác và các phương án xử lý khác đối với chất thải rắn đô thị và chất thải công nghiệp cũng trở nên phổ biến hơn trong thời kỳ này. Tỷ lệ tái chế giấy, nhựa, kim loại, rác thải xây dựng và rác thải điện tử rất cao (>90%). Các cơ sở thu hồi tài nguyên được triển khai để xử lý nhiều dòng chất thải riêng biệt khác nhau, bao gồm giấy, nhựa, kim loại, chất thải xây dựng và chất thải điện tử. Số lượng công ty tái chế đã tăng từ 2.941 năm 2001 lên 5.972 vào năm 2018. Đến 2017, tỷ lệ tái chế & compost chiếm 61,6% tổng chất thải; đốt rác phát điện chiếm 24,9%; chôn lấp chiếm 13,5% (như đã trình bày ở trên).
3. Kết luận và kiến nghị
Các quốc gia trên thế giới đã thực hiện việc quản lý chất thải rắn sinh hoạt trên cơ sở thực hiện ưu tiên việc phân loại, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, thiêu đốt thu hồi năng lượng, cuối cùng là chôn lấp.
Để thực thi chính sách đó, các nước áp dụng chính sách về định giá thu gom, vận chuyển xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo lượng (volume‑based waste fee (VBWF). Đồng thời áp dụng chính sách về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) để chuyển trách nhiệm thu gom, xử lý sản phẩm, bao bì từ nhà nước sang nhà sản xuất. Từ đó thúc đẩy sự phát triển của mô hình kinh tế tuần hoàn để có thể sớm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.
Việc phân loại rác tại nguồn cũng như áp dụng EPR cũng là biện pháp để thực hiện việc đốt rác phát điện hiệu quả, dựa trên việc tái chế những vật liệu có giá trị, tách chất thải hữu cơ, chất thải thực phẩm (chất thải có nhiệt trị thấp) ra khỏi các loại chất thải khác để tái sử dụng làm thức ăn chăn nuôi hoặc làm phân compost.
Các chất thải khác được đem đi thiêu đốt. Lượng chất thải đem đi thiêu đốt, theo các nghiên cứu như đã trình bày ở trên chỉ nên ở mức tỷ lệ 22% tổng lượng CTRSH đối với trường hợp phân loại thành chất thải có thể tái chế, chất thải nguy hại, chất thải thực phẩm và các loại chất thải khác hoặc 60% đối với trường hợp không phân loại chất thải thực phẩm. Nhưng cũng phải chú ý xu hướng chung là tỷ lệ tái chế ngày tăng và tỷ lệ đốt rác phát điện ngày càng giảm.
ThS. Nguyễn Thi
Giảng viên chính Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội