Nhảy đến nội dung
 

Thời khắc bản lề cho Đổi mới 2.0

Bốn mươi năm sau dấu mốc Đổi mới 1986, Việt Nam lại đang đứng trước một thời khắc bản lề.

Nếu Đổi mới lần thứ nhất khởi động quá trình chuyển từ kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường thì giai đoạn hiện nay đòi hỏi một cuộc chuyển đổi khó hơn: từ tăng trưởng dựa trên các yếu tố sang tăng trưởng dựa trên thể chế và năng suất…

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, dự kiến tổ chức vào đầu năm 2026, được kỳ vọng sẽ là một dấu mốc cải cách tương tự như Đổi mới 1986.

Tròn 40 năm, sự trùng hợp về thời gian mang ý nghĩa biểu tượng, nhưng điều quan trọng hơn đây là thời khắc mà Việt Nam cần xác lập lại tầm nhìn thể chế cho 20 năm tiếp theo - nhằm hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập nước.

Đổi mới 1986: Cải cách kinh tế đi liền với cải cách thể chế

Quyết định đổi mới toàn diện tại Đại hội VI năm 1986 không chỉ khởi đầu một chương trình chính sách, mà trước hết là một cuộc cách mạng về tư duy. Sau hàng thập kỷ duy trì mô hình kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế Việt Nam rơi vào trạng thái đình đốn, siêu lạm phát, thiếu hụt trầm trọng về lương thực, hàng hóa và niềm tin xã hội.

Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện tinh thần dũng cảm chính trị khi thừa nhận hạn chế của mô hình cũ và chuyển hướng sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.

Đây là bước chuyển tư duy sâu sắc: từ duy ý chí sang thực tiễn, từ phủ định thị trường sang chấp nhận nó như một động lực phân phối nguồn lực hiệu quả và từ coi tư nhân là đối tượng cải tạo sang coi đó là một chủ thể phát triển hợp pháp và cần thiết.

Trên nền tảng tư duy mới, hàng loạt cải cách thể chế kinh tế đã được triển khai một cách mạnh mẽ trong những năm tiếp theo.

Tác động của những cải cách này rất sâu rộng. Chỉ sau một năm, từ chỗ nhập khẩu gạo, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba thế giới. Việc xóa bỏ bao cấp đã chấm dứt cơ chế phân phối bằng tem phiếu kéo dài hàng thập kỷ.

Các doanh nghiệp nhà nước bắt đầu vận hành theo nguyên tắc hạch toán lãi lỗ, tự chủ sản xuất - kinh doanh. Cùng với đó, kinh tế tư nhân đã được hợp pháp hóa bằng Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, hàng nghìn doanh nghiệp dân doanh ra đời, hoạt động trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, sản xuất, trở thành lực lượng bổ sung năng động cho nền kinh tế.

Việt Nam cũng từng bước phá vỡ vòng bao vây đối ngoại, bắt đầu bằng việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 - một bước đi táo bạo, cho phép các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trực tiếp với hình thức liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài. Từ đây, FDI trở thành một dòng vốn quan trọng trong phát triển hạ tầng, công nghiệp chế biến và tạo việc làm.

Cùng với các nỗ lực ngoại giao, từ việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991), đến thiết lập quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc, EU, và đặc biệt là Hoa Kỳ (1995), Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ hội nhập.

Việc gia nhập ASEAN năm 1995 không chỉ mang ý nghĩa khu vực mà còn là sự khẳng định trở lại tư cách thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1991 - 1995 tăng trưởng trung bình 8,2%/năm - một con số nổi bật trong khu vực châu Á thời hậu Chiến tranh Lạnh. Lạm phát được kéo từ mức ba con số vào cuối thập niên 1980 xuống dưới 15% vào năm 1995, đánh dấu một thành công lớn về ổn định vĩ mô.

Nông nghiệp không những đủ nuôi sống dân số đang tăng nhanh mà còn vươn ra thế giới. Công nghiệp, dù vẫn do doanh nghiệp nhà nước nắm vai trò chủ đạo, đã bắt đầu có những chuyển động tích cực. Đặc biệt, khu vực tư nhân và kinh tế phi chính thức trở thành nơi tạo việc làm chủ yếu cho đại bộ phận dân cư thành thị và nông thôn.

Về mặt thể chế, Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận một bước tiến quan trọng: lần đầu tiên công nhận kinh tế tư nhân, quyền sở hữu tài sản, và bình đẳng pháp lý giữa các thành phần kinh tế.

Sự chuyển mình này không đơn thuần là "cởi trói" mà là một quá trình tái thiết lập trật tự kinh tế - pháp lý theo hướng thị trường, đặt nền móng cho mô hình "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" được chính thức hóa tại Đại hội VII và VIII.

Nếu coi Đổi mới là một "cuộc chuyển hóa thể chế" thì giai đoạn này chính là chương mở đầu.

Hướng đến cải cách thể chế toàn diện 2025 - 2030:

Bốn thập kỷ sau Đổi mới 1986, Việt Nam đã tiến những bước dài, trở thành một nền kinh tế đang phát triển năng động với thu nhập bình quân đầu người tăng hơn 25 lần so với năm 1990. Tuy nhiên, quá trình phát triển này đang đối mặt với những giới hạn mới.

Thực tế cho thấy những động lực từng mang lại thành công trong giai đoạn đầu - như lao động giá rẻ, dân số vàng, dòng vốn FDI và xuất khẩu tài nguyên - đang dần cạn kiệt hoặc mất lợi thế cạnh tranh. Việt Nam hiện có hơn 100 triệu dân, với khoảng 67% trong độ tuổi lao động, nhưng tỉ lệ sinh đang giảm nhanh và tốc độ già hóa dân số tăng cao.

Dự báo cho thấy thời kỳ dân số vàng của Việt Nam sẽ kết thúc vào khoảng năm 2042, kéo theo áp lực tài khóa, an sinh và thiếu hụt lao động kỹ năng. Năng suất lao động tuy tăng bình quân 5,8%/năm trong giai đoạn 2016 - 2020 nhưng vẫn thấp hơn đáng kể so với các nước Đông Á: năm 2020, năng suất của Việt Nam chỉ bằng khoảng 36% của Trung Quốc, 24% của Malaysia và chưa đến 8% của Hàn Quốc.

Trong khi đó, khu vực FDI - dù vẫn là động lực tăng trưởng chính - lại có tỉ lệ nội địa hóa thấp, năng lực kết nối với doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Phần lớn giá trị gia tăng vẫn nằm ngoài biên giới, phản ánh khả năng hấp thụ công nghệ của nền kinh tế còn yếu.

Cùng lúc, môi trường kinh doanh vẫn chịu nhiều rào cản thể chế. Hệ thống pháp luật thiếu ổn định, thường xuyên thay đổi và chồng chéo giữa các luật như Đầu tư, Đất đai, Xây dựng, Nhà ở.

Việc một dự án đầu tư cần thông qua hơn 30 loại giấy phép con, do nhiều cơ quan khác nhau cấp phát là biểu hiện của tình trạng "thể chế phân mảnh", nơi quyền lực bị chia cắt nhưng không kiểm soát lẫn nhau hiệu quả. Tham nhũng vặt vẫn phổ biến ở cấp cơ sở, trong khi các thiết chế giám sát - cả nội bộ và xã hội - còn yếu, thiếu tính độc lập.

Tất cả những điều này khiến doanh nghiệp ngại rủi ro chính sách, e dè đầu tư dài hạn, và làm xói mòn niềm tin vào cam kết cải cách. Trong bối cảnh đó, nếu không có một cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông động lực nội sinh thì những thành quả của Đổi mới trước đây rất dễ bị trì trệ hoặc rơi vào vòng lặp "tăng trưởng thấp - cải cách nửa vời - niềm tin xói mòn".

Câu hỏi đặt ra là: đâu sẽ là động lực phát triển trong giai đoạn 2025 - 2045, nếu Việt Nam muốn đạt mục tiêu trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045, như tầm nhìn đã xác định trong các văn kiện của Đảng và Chính phủ?

Câu trả lời - một cách dứt khoát: cải cách thể chế phải trở thành đòn bẩy trung tâm. Nếu như Đổi mới được phát động từ năm 1986 chủ yếu tập trung "cởi trói" kinh tế, thì cải cách hôm nay đòi hỏi phải kiến tạo một hệ thống thể chế hiện đại, thúc đẩy sáng tạo, minh bạch, và bảo đảm quyền bình đẳng thực chất giữa các chủ thể.

Việt Nam đã và đang có những tín hiệu tích cực. Nghị quyết 19-NQ/TW năm 2022 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đánh giá là văn bản toàn diện và sắc sảo nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực cải cách thể chế kinh tế.

Các chương trình về chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và xây dựng chính quyền đô thị cũng mở ra những lối đi mới. Tuy nhiên chừng nào chưa có sự cam kết chính trị ở cấp cao nhất cho một chương trình cải cách thể chế mang tính chiến lược và đồng bộ thì các chuyển động đó vẫn sẽ mang tính cục bộ, phân tán và chưa đủ tạo đột phá.

Đại hội Đảng lần thứ XIV - khát vọng vươn mình

Đổi mới lần thứ nhất năm 1986 đã là cuộc "cởi trói" về tư duy và thể chế kinh tế thì Đổi mới lần thứ hai cần là cuộc cải cách thể chế sâu rộng, nhằm hiện đại hóa mô hình quản trị quốc gia.

Một chương trình cải cách thể chế mang tính tổng thể cần được đưa vào nghị trình chính trị ở tầm cao nhất tại Đại hội XIV. Đây không chỉ là nhu cầu kỹ thuật của chính sách công, mà là một lựa chọn chính trị có ý nghĩa định hướng quốc gia trong 20 năm tới.

Đổi mới 2.0 cần một tầm nhìn được định hình ngay từ các văn kiện Đại hội XIV, với những mục tiêu rõ ràng, có thời hạn thực hiện cụ thể và lộ trình chính sách đi kèm. Việt Nam không thiếu động lực phát triển - mà thiếu cơ chế để động lực đó được phát huy đúng cách.

Đại hội XIV là cơ hội để đặt lại cấu trúc thể chế phù hợp với tầm vóc một quốc gia đang hướng tới vị thế nước thu nhập cao vào năm 2045. Như chính lịch sử Đổi mới 1986 đã chứng minh: khi lựa chọn đúng thời điểm để hành động, kể cả một quốc gia cũng có thể thay đổi số phận.

Những rào cản lớn nhất hiện nay không còn nằm ở nguồn lực vật chất, mà nằm ở khả năng thiết kế và vận hành một hệ thống quản trị nhà nước hiện đại - nơi quyền lực được kiểm soát, trách nhiệm được phân định rõ ràng, và kết quả là thước đo cuối cùng của chính sách.

Những yêu cầu mới của một nền kinh tế sáng tạo, số hóa, carbon thấp và gắn kết toàn cầu đòi hỏi một hệ sinh thái thể chế hoàn toàn khác: linh hoạt hơn, minh bạch hơn, và có khả năng phản ứng chính sách nhanh hơn.

Kinh nghiệm quốc tế - từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore - đều chỉ ra rằng: những cải cách thể chế mang lại đột phá thường được bắt đầu khi quốc gia đối diện với ngưỡng phát triển mới, nơi các "cú hích từ thể chế" trở thành điều kiện cần để đi tiếp.

Trong bối cảnh toàn cầu đầy bất định và cạnh tranh, thể chế sẽ quyết định không chỉ tốc độ tăng trưởng, mà còn chất lượng phát triển và khả năng hội nhập.

Đã đến lúc từ lãnh đạo cấp cao đến bộ máy hành chính và cộng đồng doanh nghiệp phải cùng thống nhất trong quan điểm: Việt Nam cần một tư duy đột phá mới - tư duy thể chế, tư duy minh bạch, và tư duy kiến tạo dài hạn. Trong những thời điểm bản lề, chính tư duy ấy - chứ không phải nguồn lực tài chính hay công nghệ - mới là yếu tố quyết định sự thịnh vượng trong dài hạn của quốc gia.

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: daisanjsc@gmail.com

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn