Nhảy đến nội dung
 

'Thời hoa lửa' của đôi vợ chồng chiến sĩ Trường Sơn

Giữa khói lửa chiến tranh, ông Tống Văn Đắc (sinh năm 1945) tình cờ gặp bà Trần Thị Thu (sinh năm 1946) trong một lần làm nhiệm vụ tại đơn vị. Trải qua bao gian khó, tình yêu của họ vẫn vẹn nguyên và đơm hoa kết trái sau nhiều năm chờ đợi.

Cùng nhau "xẻ dọc Trường Sơn"

Năm 1965, khi vừa tròn 20 tuổi, chàng thanh niên Tống Văn Đắc (TP.Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang) gác lại những ước mơ riêng để lên đường nhập ngũ. Ông Đắc được biên chế vào đơn vị công binh - đội xe thuộc Trung đoàn 559, đóng quân tại Hà Tĩnh. 

Nhiệm vụ của ông và đồng đội là sửa chữa xe cơ giới, đảm bảo những chuyến xe chi viện cho chiến trường miền Nam luôn thông suốt. Đến năm 1968, ông chuyển về đóng quân tại Quảng Bình.

Không trực tiếp chiến đấu, nhưng nhiệm vụ của ông Đắc cũng gian nan, vất vả và nguy hiểm không kém. Không ít lần ông đã cận kề cái chết. 

"Một lần thực hiện nhiệm vụ giao xe, đúng lúc máy bay Mỹ ồ ạt thả bom. Tôi may mắn chui kịp vào hầm thoát nạn. Nào ngờ, chỉ một lúc sau, máy bay địch quay lại ném bom lần nữa, lần này rất nhiều chiến sĩ trong đơn vị đã hy sinh hoặc để lại một phần máu xương trên con đường ra trận", ông Đắc nhớ lại.

Ông Đắc cho biết, dù bom đạn Mỹ ngày đêm cày xới, dù cái chết luôn rình rập, nhưng ý chí của những người lính Trường Sơn chưa bao giờ lụi tàn. Với quyết tâm "Sống bám đường, chết kiên cường, dũng cảm", những người lính công binh như ông Đắc luôn lấy đó phương châm sống, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Ngồi kế ông Đắc, bà Thu cũng bồi hồi cho biết, sinh ra và lớn lên ở Hà Nam, những năm phơi phới thanh xuân, bà luôn được thôi thúc bởi tiếng gọi vì miền Nam ruột thịt. 

"Năm 1965, lớp lớp thanh niên theo lời kêu gọi "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người" vì miền Nam, quyết tâm thống nhất đất nước. Nhìn thanh niên trai tráng trong làng xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ, những nữ sinh như tôi cũng không khỏi háo hức, mong chờ tới ngày được gọi tên", bà Thu kể.

Thế rồi cô thiếu nữ tuổi 19 khi ấy đã tạm gác lại ước mơ con chữ để đăng ký đi thanh niên xung phong tham gia sản xuất, mở đường Trường Sơn. Đến năm 1968, bà Thu được biên chế về Đoàn 559, tham gia phục vụ chiến đấu ở Mặt trận đường 10 tại Quảng Bình.

Hằng ngày, "những cô gái mở đường" với cuốc xẻng hăng say xúc đất đá, chặt cây dọn đường cho xe qua. Đôi tay phồng rộp lúc nào không hay. Những bữa ăn vội vã với củ mì, củ mài, rau rừng, lương khô kéo dài đằng đẵng ngày này qua tháng khác.

"Giữa chốn rừng thiêng nước độc, rất nhiều chiến sĩ bị sốt rét nhưng thuốc thang lại vô cùng khan hiếm. Rồi căn bệnh ghẻ lở, tưởng chừng đơn giản, lại trở thành nỗi ám ảnh dai dẳng, bào mòn sức khỏe và ý chí của người lính trong điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Không ít đồng đội của tôi gặp phải sốt rét ác tính đã không qua khỏi", bà Thu hồi tưởng.

Trong điều kiện đó, các chiến sĩ còn thường xuyên đối mặt với mưa bom bão đạn của quân địch. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, đến giờ bà Thu vẫn còn ám ảnh âm thanh của máy bay địch vần vũ trên những tán cây. 

"Có lần bất ngờ bom nổ ngay phía trước khiến tôi ngã quỵ, đất đá tung tóe. May mắn tôi không bị thương. Nhưng không phải ai cũng thoát hiểm mãi như thế. Đồng đội tôi không ít người vì trúng bom mà mang thương tật, thậm chí mãi mãi nằm lại giữa núi rừng. Phải có mặt ở chiến trường thời điểm ấy mới quý trọng cuộc sống của mình như thế nào", bà Thu tâm sự.

Hẹn ước giữa đạn bom

Tuyến đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh không chỉ là huyết mạch chi viện cho chiến trường miền Nam mà còn là nơi chứng kiến biết bao câu chuyện tình yêu, ý chí kiên cường của những người lính cụ Hồ. Cùng sống và thực hiện nhiệm vụ tại Quảng Bình từ năm 1968, nhưng phải đến năm 1969, ông Đắc và bà Thu mới có duyên gặp gỡ.

Ông Đắc kể: "Trong một lần thực hiện nhiệm vụ tại đơn vị của bà Thu, chúng tôi quen nhau qua lời giới thiệu của đồng đội. Chúng tôi cứ thế mà nói chuyện, từ chuyện công việc đến chuyện gia đình, quê hương".

Hai người nhanh chóng nhận ra sự đồng điệu trong tâm hồn. Ông Đắc ấn tượng với sự tháo vát, lạc quan của bà Thu dù bom đạn luôn rình rập. Còn bà Thu thì cảm mến sự chân thành, nhiệt huyết và tính cách điềm đạm của ông Đắc. Giữa khói lửa chiến tranh, những cuộc trò chuyện ngắn ngủi đã se duyên cho họ. Rồi một lời hẹn ước được thốt ra: "Nếu còn sống, chúng ta sẽ cưới nhau".

Năm 1969, bà Thu được cử đi học lớp bổ túc văn hóa T.Ư. Một năm sau thì ông bà tổ chức đám cưới tại Tuyên Quang, trong không khí ấm cúng, giản dị, nhưng tràn đầy hạnh phúc và hy vọng. Sau đám cưới, ông Đắc tiếp tục trở lại chiến trường miền Nam.

Thời gian đầu, mỗi khi đơn vị dừng chân tại các binh trạm, ông tranh thủ viết thư về cho gia đình. Mỗi lá thư đi nhiều khi mất hàng tháng trời mới có thể đến tay người thân quê nhà, chưa kể không ít lá thư bị thất lạc, khiến bà Thu cứ ngóng trông chồng trong thấp thỏm lo âu.

Từng chứng kiến đau thương, mất mát ngay trước mắt mình nên bà Thu hiểu số phận khó lường của những người lính nơi trận mạc. Tối đến, nước mắt cứ lăn dài. Thế nhưng, trong trái tim mình, bà vẫn không thôi hy vọng tới ngày chiến thắng, chồng bà sẽ trở về.

"Thời ấy, cả làng đều ngóng trông tin tức từ chiến trường nhưng không được bao nhiêu, có lúc bặt vô âm tín. Thư từ ngày càng ít dần, có khi cả năm mới nhận được thư của chồng và cũng là thư cũ. Vậy nên, tôi biết rằng các anh đã vào trận đánh lớn. Mỗi lúc xã thông báo có giấy báo tử từ miền Nam chuyển về, tim tôi thắt lại, sợ hãi. Khi lại có tin đơn vị anh hy sinh rất nhiều khiến tôi hoang mang vô cùng. Cái cảm giác chờ đợi ấy tôi không thể nào quên được", bà Thu nghẹn ngào nhớ lại.

Năm 1974, đất nước sắp hòa bình, ông Đắc được trở về với gia đình. Ngày ông Đắc về, con đường nhỏ dẫn vào nhà dường như dài hơn, nhưng cũng rộn ràng hơn bao giờ hết. Bà Thu, với trái tim đập rộn ràng không ngừng, ra đầu ngõ ngóng chồng từ sáng sớm. Mỗi bóng dáng lướt qua đều khiến bà nín thở, trước khi dáng của người chồng thân quen xuất hiện.

"Nước mắt tôi cứ thế trào ra, lăn dài trên gò má hằn sâu dấu vết của thời gian và nỗi nhớ. Đó là những giọt nước mắt của sự vỡ òa, của niềm hạnh phúc tột cùng khi thấy người chồng bằng xương bằng thịt trở về, bình an sau bao hiểm nguy", bà Thu kể. "Đắc ơi, anh về rồi!" - tiếng kêu nghẹn ngào bật ra sau bao tháng ngày mòn mỏi chờ đợi.

Ông Đắc không nói nên lời, chỉ ôm chặt vợ. Đó là khoảnh khắc bình dị nhất của tình yêu mà họ cảm nhận được, sau bao thăng trầm cùng khói lửa chiến tranh.

Giờ đây, khi tuổi đã xế chiều, ông Đắc và bà Thu vẫn bên nhau, vẫn dành cho nhau những cử chỉ ân cần như thuở ban đầu. Trong căn nhà nhỏ ấm áp, họ thường kể lại những câu chuyện thời chiến, những lần vào sinh ra tử trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại cho các con, các cháu nghe. Cuộc đời họ là minh chứng cho tình yêu son sắt, thủy chung, bất chấp gian khó, để rồi cuối cùng là một kết thúc viên mãn, trọn vẹn. 

 
 
 
logo
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN

GPĐKKD: 0103884103 do sở KH & ĐT TP Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Địa chỉ: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season,  47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

MIỀN BẮC

Địa chỉ Showroom: D11-47 KĐT Geleximco Lê Trọng Tấn, Hà Đông, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

MIỀN NAM

Địa chỉ VPGD: 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn