Nhảy đến nội dung
 

Thợ xây, nông dân thu tiền tỷ mỗi tháng nhờ nuôi tôm công nghệ cao

(Dân trí) - Những nông dân, thợ xây một nắng hai sương ở Quảng Ninh đã mạnh dạn áp dụng khoa học công nghệ vào nuôi tôm, kiếm tiền tỷ mỗi tháng và tạo công ăn việc làm cho nhiều người.

Những ngày giữa tháng 11, khu nuôi trồng thủy sản của gia đình ông Nguyễn Văn Ngọc (64 tuổi, ở phường Hà Tu, Quảng Ninh) hiện lên như một khu du lịch sinh thái. Hồ nuôi tôm thẻ chân trắng, ao nuôi cá song đều được xây thành khoang gọn gàng, khang trang. Cả khu vực được quy hoạch khoa học, sạch sẽ và tiện lợi.

Ông Ngọc chia sẻ, để có được ngày hôm nay, cha ông là Nguyễn Văn Lạng (1937-2011) đã bỏ ra cả cuộc đời đắp đập ngăn sóng biển, đào hồ nuôi thủy sản từ những năm 1985. Khi đó, bãi Hà Sú còn là đầm lầy hoang vu, nước biển xâm nhập vào tận quốc lộ 18, dân cư thưa thớt. Với công cụ thô sơ như xẻng, kéo cắt đất, ông Lạng miệt mài tạo ra những bờ đập đầu tiên.

“Bố tôi phải thuê thêm nhân công từ nơi khác. Nhiều lần đập bị sóng biển đánh vỡ, cá trôi hết, trắng tay, nhưng ông không nản chí mà tiếp tục vay mượn để làm lại. Mỗi thành công là kết quả của mồ hôi, nỗ lực và kiên trì”, ông Ngọc kể.

Ngày nay, khu đầm của gia đình ông Ngọc trở thành nơi làm việc của hơn 50 lao động, cùng con cháu trong gia đình. Công việc từ cho tôm ăn, kiểm tra môi trường nước, đến quản lý ao nuôi đều được phân công cụ thể. Mức lương được ông Ngọc chi trả ổn định cho người lao động 8-12 triệu đồng/tháng đã bao ăn ở, cộng thưởng theo vụ mùa giúp họ có cuộc sống ổn định.

Ông Nguyễn Văn Chí (66 tuổi, quê Nam Định cũ), làm việc tại đây 7 năm, chia sẻ: “Tôi từng làm nhiều công việc khác nhau nhưng khi đến đây, thấy môi trường làm việc rất tốt, phù hợp và thu nhập ổn định. Tôi sẽ gắn bó lâu dài”. Còn ông Vũ Văn Sâm (54 tuổi, quê Thái Bình cũ) đảm nhận quản lý công nhân nuôi tôm, có mức thu nhập 12 triệu đồng/tháng và đã gắn bó 20 năm.

Ông Ngọc cho biết, toàn bộ mô hình nuôi tôm được áp dụng khoa học công nghệ nghiêm ngặt. Kỹ sư Nguyễn Mạnh Dũng (26 tuổi), tốt nghiệp Đại học Thủy sản Nha Trang, chịu trách nhiệm đo các thông số môi trường trong ao nuôi, gồm độ PH, kiềm, amoniac (NH3), phèn và các vi khuẩn gây bệnh.

Theo kỹ sư Dũng, độ PH của nước ao nuôi tôm phải được duy trì trong khoảng 7,5–8,5 để tôm phát triển tối ưu. Nếu thấp hơn hoặc cao hơn, các kỹ sư sẽ sử dụng các khoáng chất để điều chỉnh về ngưỡng an toàn. Chỉ số phèn trong ao được xử lý bằng hóa chất khử khí độc Sodium thiosulfate (Na₂S₂O₃), giúp trung hòa các khí độc như chlorine (Cl₂) và bromine (Br₂).

Amoniac là chất thải độc hại trong ao nuôi, sinh ra từ phân tôm, thức ăn dư thừa. Khi nồng độ NH3 quá cao, tôm dễ bị nhiễm bệnh và chết. Kỹ sư Dũng và nhóm kiểm soát chất lượng nước sẽ xả đáy ao để Amoniac thoát ra ngoài hoặc xử lý bằng hóa chất phù hợp.

Ngoài ra, các vi khuẩn và virus có thể gây bệnh cho tôm. Vi khuẩn ký sinh trên tế bào tôm, làm tôm suy yếu, virus sẽ xuất hiện theo, dẫn đến tôm chết hàng loạt. Nhóm kỹ sư tiến hành khử khuẩn nước, theo dõi các chỉ số và bổ sung các thảo dược vào thức ăn để hỗ trợ gan, đường ruột tôm, hạn chế dịch bệnh.

Mỗi vụ nuôi tôm kéo dài 3 tháng, trong một năm thực hiện hai vụ. Mỗi vụ, nếu thuận lợi, đạt sản lượng trung bình khoảng 300 tấn, giá bán khoảng 150.000 đồng/kg. Quy trình nuôi tôm công nghệ cao giúp tăng năng suất, giảm rủi ro và đảm bảo chất lượng sản phẩm.

Ngoài gia đình ông Ngọc, ông Đặng Bá Mạnh, Giám đốc Hợp tác xã nuôi tôm công nghệ cao Cẩm Phả (xã Hải Hòa, Quảng Ninh) cũng là tấm gương sáng cho nông dân, thợ xây dám nghĩ, dám làm. Từng có gần 30 năm gắn bó với ngành xây dựng và bất động sản, ông Mạnh quyết định đầu tư 160 tỷ đồng vào nuôi tôm công nghệ cao tại xã Hải Hòa, trên diện tích 6ha.

Khởi nghiệp nông nghiệp với vốn, kinh nghiệm và kỹ thuật còn hạn chế, ông Mạnh từng gặp nhiều khó khăn. Khi mô hình hạ tầng hoàn thiện, khu vực chưa có điện, ông phải dùng máy phát dầu. Thời gian đầu, ông thuê chuyên gia kỹ thuật, nhưng kết quả chưa đạt yêu cầu. Sau đó, ông tự học, nghiên cứu và thử nghiệm quy trình nuôi phù hợp.

Những thách thức liên tục ập đến: bão Yagi phá hủy khu nuôi, dịch bệnh gây thiệt hại toàn bộ vụ tôm. Ông Mạnh không nản chí, rút kinh nghiệm, xây dựng mô hình nuôi 3 giai đoạn: thả tôm giống mật độ cao, chuyển sang mật độ trung bình và cuối cùng mật độ thấp, cho tôm size 28-32con/kg.

Nguồn tôm giống được nhập từ hai công ty ở Quảng Ninh và Ninh Thuận (nay là tỉnh Khánh Hòa) đảm bảo an toàn sinh học. Hợp tác xã hiện có 12 ao bê tông cốt thép, 5 ao xử lý nước, 2 ao chứa nước, sản lượng bình quân 35-40tấn/tháng, tương đương 350-400tấn/năm với giá bán khoảng 150.000 đồng/kg, cao gấp 10-15 lần nuôi quảng canh truyền thống.

Công nhân được phân công rõ ràng. Anh Triệu Quý Thành (SN 1990) phụ trách cho tôm ăn 5 khung giờ mỗi ngày, quan sát ao, xử lý bọt, dọn ao bẩn. Thu nhập cố định 12 triệu đồng/tháng, cộng thêm năng suất bình quân 8 triệu đồng/tháng, tổng thu nhập khoảng 20 triệu đồng/tháng. Kỹ thuật viên Dương Thị Liễu đo các chỉ số nước như PH, kiềm, canxi, magie, độ mặn, NH3, NO2… báo kết quả cho nhóm phụ trách ao để điều chỉnh kịp thời.

Mô hình của ông Mạnh tạo việc làm ổn định cho 25-30 lao động, mức thu nhập 12-40 triệu đồng/tháng. Ông cho biết: “Tôi luôn mong muốn lao động có cuộc sống ổn định, coi nơi đây như ngôi nhà chung để cùng phát triển”.

Không dừng lại, ông dự kiến mở rộng thêm 50ha vào năm 2026, ứng dụng tự động hóa trong cho ăn, giám sát môi trường nước bằng cảm biến, nhằm giảm chi phí và tăng năng suất.

“Nuôi tôm công nghệ cao không chỉ mang lại thu nhập ổn định mà còn tạo việc làm xứng đáng cho nhiều người. Thành công hôm nay là phần thưởng cho những năm tháng dám nghĩ, dám làm và không ngừng học hỏi”, ông Mạnh chia sẻ.

Những câu chuyện của gia đình ông Ngọc và ông Mạnh là minh chứng cho sức mạnh của lao động cần cù, trí tuệ sáng tạo và sự dám dấn thân. Từ thợ xây, nông dân một nắng hai sương đến kỹ sư trẻ, tất cả đều cùng nhau vận hành mô hình tôm công nghệ cao, kiểm soát chặt chẽ từng chỉ số môi trường, áp dụng khoa học kỹ thuật để tôm phát triển tối ưu.

Qua mỗi vụ nuôi, mỗi thành công không chỉ là lợi nhuận, mà còn là việc làm ổn định cho nhiều người, là động lực để họ gắn bó lâu dài với nông nghiệp công nghệ cao. Những nỗ lực này góp phần biến vùng đất vốn gắn với than, biển và du lịch thành nơi sáng tạo giá trị nông nghiệp bền vững.

Những tấm gương thợ xây, nông dân mạnh dạn áp dụng khoa học công nghệ vào nuôi tôm chính là lời nhắc nhở về tinh thần lao động, kiên trì, và khát vọng đổi mới. Họ đã chứng minh rằng, một nắng hai sương cộng với công nghệ, tri thức và niềm tin có thể tạo ra những thành quả vượt ngoài mong đợi.

Với thu nhập tiền tỷ mỗi tháng, hàng trăm tấn tôm sản xuất mỗi năm, mô hình nuôi tôm công nghệ cao ở Quảng Ninh không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn tạo ra niềm tự hào, hy vọng và cảm hứng cho nhiều nông dân khác dám nghĩ, dám làm để biến vùng đất ven biển trở thành vùng đất giàu tiềm năng.

Ông Bùi Hải Sơn, Phó Chủ tịch UBND xã Hải Hòa đánh giá cao mô hình nuôi tôm của ông Mạnh. Ngoài tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động, cơ sở này còn tích cực tham gia các hoạt động của địa phương như phong trào khuyến học, an sinh xã hội và đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của xã Hải Hòa nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung.

Trước đó khi trả lời phóng viên về mô hình nuôi tôm của ông Ngọc nói trên, ông Đỗ Đình Minh, Chi cục trưởng Chi cục Biển, Hải đảo và Thủy sản, Kiểm ngư (Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Ninh) từng cho biết: Mô hình nuôi trồng thủy sản của gia đình ông Ngọc được hình thành từ năm 1985 và phát triển bền vững đến nay. Sau nhiều năm mở rộng, gia đình ông đã mạnh dạn đầu tư quy mô lớn với tổng diện tích nuôi công nghiệp gần 80ha, áp dụng công nghệ cao của Israel.

Mô hình cũng hợp tác với Đài Loan (Trung Quốc) thông qua chương trình xúc tiến thương mại giữa Quảng Ninh và Đài Loan diễn ra các năm 2014 và 2016, giúp nâng cao kỹ thuật và hiệu quả sản xuất.

Mỗi năm, cơ sở của ông Ngọc đạt sản lượng 600-750 tấn tôm và hàng trăm tấn cá các loại, tạo việc làm cho hàng trăm lao động trong và ngoài tỉnh. Trong thời kỳ dịch Covid-19, mô hình vẫn duy trì hoạt động ổn định, tham gia phòng chống dịch tại địa phương và đảm bảo việc làm cho công nhân.

Ông Minh cho biết ông đánh giá cao công nghệ nuôi thủy sản của mô hình này, bởi đơn vị luôn tiên phong nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới và đạt hiệu quả cao. Từ mô hình của gia đình ông Ngọc, nhiều cơ sở nuôi thủy sản trong tỉnh đã học tập và phát triển, góp phần thúc đẩy kinh tế ngành nông nghiệp.

Cả hai mô hình nuôi tôm công nghệ cao tại Quảng Ninh không chỉ góp phần phát triển kinh tế địa phương mà còn lan tỏa tinh thần dám nghĩ, dám làm, ứng dụng khoa học - công nghệ vào nông nghiệp, đồng thời thể hiện trách nhiệm xã hội cao.

Quảng Ninh hiện có hơn 7.500ha diện tích nuôi tôm, bao gồm tôm thẻ chân trắng và tôm sú, với hơn 2.250 cơ sở. Các cơ sở tập trung chủ yếu ở khu vực miền Đông như Móng Cái, Hải Ninh, Quảng Hà, Đầm Hà, Hải Lạng, Hải Hòa, cùng một số địa phương miền Tây như Hà An, Uông Bí. Đây là những vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho nuôi tôm, với nguồn nước biển sạch, đầm phá và đất ngập mặn phù hợp đặc điểm sinh trưởng của tôm.

Theo ông Đỗ Đình Minh, Chi cục trưởng Chi cục Biển, Hải đảo và Thủy sản, Kiểm ngư (Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Ninh): “Quảng Ninh có khí hậu nhiệt đới gió mùa ấm áp, với nhiệt độ trung bình từ 22 đến 24 độ C quanh năm. Hệ thống thủy lợi và các vịnh, đầm tự nhiên tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển tôm bền vững và xuất khẩu, đặc biệt là sang thị trường Trung Quốc”.

Ngành nuôi tôm ở Quảng Ninh chủ yếu tập trung vào hai giống tôm chính: tôm thẻ chân trắng và tôm sú. Trong đó, tôm thẻ chân trắng chiếm ưu thế nhờ tốc độ tăng trưởng nhanh, khả năng nuôi mật độ cao và nhu cầu thị trường lớn. Theo quy hoạch của tỉnh giai đoạn 2021-2030, diện tích đất và mặt nước chuyên dùng cho nuôi trồng thủy sản nội địa là hơn 50.000ha, trong đó diện tích nuôi tôm trung bình khoảng 7.500ha. Các dự án như của Công ty cổ phần Thủy sản Việt - Úc tại xã Đầm Hà (Quảng Ninh) cũng góp phần cung cấp khoảng 1,5 tỷ postlarve (tôm giống) mỗi năm, phục vụ chủ yếu cho nhu cầu trong tỉnh.

Trong những năm qua, ngành tôm Quảng Ninh đã có những bước phát triển đáng kể. Theo ông Minh: “Các địa phương đã tập trung đầu tư hạ tầng vùng nuôi tập trung, chuyển đổi sang mô hình nuôi công nghiệp và nuôi vụ đông. Năng suất trung bình đạt khoảng 20 tấn/ha tại một số vùng đã hoàn thiện hạ tầng”.

Các mô hình nuôi công nghiệp liên kết theo chuỗi giá trị cũng được triển khai, trong đó nhà quản lý, nhà khoa học, nhà cung ứng giống và thức ăn cùng cơ sở thu gom sản phẩm phối hợp với người nuôi, giúp giảm chi phí, nâng cao hiệu quả và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Tuy nhiên, ngành nuôi tôm ở Quảng Ninh vẫn đối mặt nhiều thách thức. Thứ nhất, theo ông các thị trường nhập khẩu tôm lớn, đặc biệt là Trung Quốc, liên tục nâng tiêu chuẩn kỹ thuật, tạo áp lực cho các cơ sở. Thứ hai, mùa đông lạnh kéo dài hạn chế sản xuất tôm giống, khiến nhiều cơ sở phải ương dưỡng tôm giống trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, chi phí cao và rủi ro lớn.

Thứ ba, theo ông Minh là diện tích nuôi tôm mặn lợ có xu hướng thu hẹp để nhường đất cho các ngành kinh tế khác. Thứ tư ông cho rằng giá thành nuôi tôm ở Quảng Ninh cao hơn các tỉnh miền Nam do thức ăn chiếm trên 65% giá thành và chi phí vật tư đầu vào tăng. Cuối cùng, hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi tôm chủ yếu dùng chung với nông nghiệp, dễ bị ô nhiễm.

Để nâng cao hiệu quả và giảm rủi ro, các cơ sở nuôi tôm đã áp dụng nhiều tiến bộ khoa học công nghệ, ông Minh cho biết: “Nhiều cơ sở đã triển khai công nghệ nuôi thông minh với hệ thống cảm biến đo nhiệt độ, độ mặn, PH và oxy hòa tan, giúp duy trì môi trường ổn định cho tôm và tối ưu hóa quy trình nuôi”.

Các công nghệ khác bao gồm nuôi tôm trong hệ thống tuần hoàn khép kín (RAS) nhằm giảm ô nhiễm và tiết kiệm nước; nuôi tôm thâm canh công nghệ cao với Biofloc, nhà kính, hệ thống cấp nước và chế phẩm sinh học; sử dụng giống tôm chất lượng cao, kháng bệnh, thích ứng tốt với môi trường thay đổi.

Việc ứng dụng công nghệ cũng gặp một số khó khăn. Chi phí đầu tư ban đầu cao, nguồn nhân lực chuyên môn còn hạn chế, và việc duy trì hệ thống công nghệ đòi hỏi chi phí vận hành và bảo dưỡng thường xuyên. Dù vậy, hiệu quả kinh tế từ công nghệ cao đã rõ rệt.

Ông Minh nhấn mạnh, công nghệ RAS, Biofloc và nuôi thâm canh nhiều giai đoạn giúp tăng năng suất 30-50% so với phương pháp truyền thống. Kiểm soát chất lượng nước và quản lý dịch bệnh chủ động nâng cao tỷ lệ tôm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.

Theo ông Minh, các cơ sở điển hình như Công ty TNHH Việt Úc Quảng Ninh đã nghiên cứu và ứng dụng công nghệ để sản xuất tôm giống chịu lạnh, phục vụ nuôi vụ đông và nuôi trái vụ, giúp người nuôi đạt năng suất cao. Hợp tác xã Nuôi tôm công nghệ cao Cẩm Phả của ông Mạnh nói trên cũng xây dựng mô hình nuôi 3 giai đoạn trong nhà kính trên 6ha, với 12 ao nuôi, đạt trung bình khoảng 10 tấn/ao mỗi vụ. Những mô hình này góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng giá trị kinh tế và giảm thiểu rủi ro.

Nhìn về tương lai, Quảng Ninh tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào ngành nuôi tôm để phát triển bền vững. Ông Minh cho biết: “Chúng tôi sẽ triển khai quy hoạch nuôi trồng thủy sản theo Quyết định 80/QĐ-TTg về Phê duyệt Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 của Chính phủ, nâng cấp cơ sở hạ tầng, áp dụng kỹ thuật tiên tiến và tăng cường quan trắc môi trường, giám sát dịch bệnh để giảm thiểu thiệt hại, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm”.

Theo ông, tỉnh cũng chú trọng tổ chức liên kết sản xuất, giảm khâu trung gian, bảo đảm vật tư đến tay người nuôi nhanh và chi phí thấp. Việc vận động người nuôi áp dụng kỹ thuật tiên tiến trong tất cả khâu nuôi sẽ giúp tăng tỷ lệ sống, giảm hệ số thức ăn và tối ưu hóa chi phí.

Với những định hướng này, Quảng Ninh đang từng bước nâng tầm ngành tôm, tạo ra sản phẩm chất lượng, năng suất cao và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. “Ứng dụng khoa học công nghệ là chìa khóa để ngành tôm Quảng Ninh phát triển bền vững, nâng cao giá trị xuất khẩu và thích ứng với biến đổi khí hậu”, ông Minh nhấn mạnh.

Nội dung: Nguyễn Dương

Thiết kế: Vũ Hưng

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: info@daisan.vn

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn