Thanh Thảo, nhà thơ trường ca của tư tưởng và cái đẹp

Với 15 trường ca và hàng chục tập thơ, bút ký, tiểu luận văn học đã in trong nửa thế kỷ qua, nhà thơ Thanh Thảo được bạn bè văn chương đặt cho nghệ danh là "ông vua trường ca" của thi ca đương đại VN. Nhưng có một điều khá hay, Thanh Thảo vẫn là một nhà thơ lớn của những bài thơ nhỏ rất đặc sắc, hiện đại và đáng chú ý.
Nhà thơ Thanh Thảo tên khai sinh là Hồ Thành Công, sinh năm 1946, quê Quảng Ngãi, sau khi tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội năm 1969, ông vào công tác ở chiến trường miền Nam với tư cách là người lính và nhà báo. Ông được trao nhiều giải thưởng văn học giá trị của Hội Nhà văn VN và Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (VHNT) đợt 1 năm 2001. Ông từng là Phó tổng thư ký Hội Văn nghệ Quảng Ngãi rồi Chủ tịch Hội VHNT tỉnh Quảng Ngãi.
Trong trường ca Những người đi tới biển, một câu thơ nổi tiếng của Thanh Thảo viết về người lính đã "nằm lòng" mấy thế hệ trận mạc như một câu hỏi lớn: "Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/ (Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?/ Cỏ sắc mà ấm quá, phải không em"...
Thanh Thảo là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong khói lửa chiến tranh và trưởng thành cùng thời đại. Tuy nhiên, khác với nhiều cây bút thiên về cảm xúc sử thi hay chất anh hùng ca, Thanh Thảo chọn cho mình lối đi riêng, đó là thơ tư duy, thơ phản tỉnh và thơ khám phá chiều sâu nhân tính. Ông không chỉ là một thi sĩ ghi lại chiến tranh, mà là người suy tư về chiến tranh, con người và vận mệnh dân tộc, với một bút pháp độc đáo, nhiều liên tưởng, tượng trưng, siêu thực và triết lý.
Những đặc điểm nổi bật trong thơ Thanh Thảo chính là hành trình thơ của tư duy, không chỉ cảm xúc mà còn là suy nghiệm. Trong các tập như Những người đi tới biển hay Dấu chân qua trảng cỏ, Thanh Thảo viết về chiến tranh, nhưng đi sâu vào cảm thức nhân sinh, vào nỗi đau, sự hy sinh và thân phận con người.
"Lặng im như đá mồ côi/ họ dạy anh tình yêu/ không lời/ anh yêu biển mà đứng trên bờ/ anh yêu nước mà không biết bơi/ làm sao anh hiểu?/ có những người lính đảo/ trần lưng trước mưa đạn quân thù". Câu thơ như một câu hỏi lớn xoáy vào tâm can những người đang sống với chính sự chiêm nghiệm về những mất mát, hy sinh mà người lính phải trải qua. Tư duy thơ của Thanh Thảo luôn mang tính hai chiều: vừa hướng về lý tưởng, vừa không quên cái thực và những nỗi buồn lặng lẽ phía sau vầng trán thời đại. Ngôn ngữ thơ của ông giàu hình ảnh liên tưởng, ẩn dụ và giàu nhạc tính. Thanh Thảo nổi bật với ngôn ngữ giàu chất nhạc và tượng trưng. Ông sử dụng nhiều cấu trúc câu phá cách, những cụm từ gợi mở, tạo nên một giọng thơ độc đáo, như trong trường ca Chân đất:
"Đá cõng đá cõng đá/ mồ hôi cõng mồ hôi/ tháng năm cõng tháng năm/ người cõng người/ xây nên Trường Lũy/ cùng mọi người tôi vác đá xây lũy/ cùng mọi người tôi vác tự do vác tình anh em qua lũy/ cùng mọi người tôi ném những trái ngang khỏi lũy/ chúng tôi không xây Vạn Lý Trường Thành/ chúng tôi đếch cần hảo hán/ chúng tôi tươi vui bình thản/ dù chân lũy tới chân trời/ xa lắc chơi vơi".
Hình ảnh trong thơ là những biểu tượng đầy ám ảnh về dải đất Trường Lũy và con người ở quê hương Thanh Thảo trước lịch sử và số phận là chất thơ riêng của ông với sự giản dị nhưng hàm chứa chiều sâu triết lý. Trong thơ ông, chất triết lý hiện sinh song hành cùng sự cách tân không ngừng.
LÀM MỚI CÁCH NHÌN VỀ CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN TRONG THI CA
Những năm sau chiến tranh, một Thanh Thảo với những tìm tòi mới trong thơ lại bắt đầu khuấy động thi đàn. Có người đánh giá cao những đóng góp của ông trong mảng thơ viết về chiến tranh; cũng có người cho rằng mảng thơ sau chiến tranh của ông với những nỗi đau đời sống thường ngày, với những trăn trở cách tân cho thấy một diện mạo sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về thơ Thanh Thảo. Tôi thì cho rằng ở giai đoạn nào cũng vậy, Thanh Thảo vẫn là một tài năng thơ đích thực với trái tim luôn nồng nhiệt, chân thành, chia sẻ với mọi mất mát và bất bình trước mọi giả trá, bất công và bạo lực.
Trường ca của ông như bản giao hưởng đa thanh nhiều giọng nói, nhiều trường nghĩa. Những đoạn trường ca của ông như cuộc "hội thoại" giữa con người với thời đại và thân phận. Trong trường ca Khối vuông Rubik, ông tạo ra một cấu trúc như khối rubik xoay đa chiều, chứa đựng những mảnh ghép cuộc đời, nghệ thuật, chiến tranh và cả siêu hình học. Đây chính là một bước đẩy trường ca vào không gian nghệ thuật đa chiều, đa nghĩa.
Ông là người tiên phong phá bỏ ranh giới giữa thơ và văn xuôi, giữa thơ trữ tình và triết lý, giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học. Trường ca của ông là sự hòa trộn giữa tự sự trữ tình với triết lý, giữa biểu cảm và liên tưởng với cách kết cấu phi tuyến tính rồi cắt khúc và giao thoa đa tầng. Đây chính là mô hình "trường ca hậu hiện đại" ở VN giai đoạn sau chiến tranh.
Thanh Thảo không chỉ làm mới thơ Việt qua hình thức trường ca, mà còn làm mới cách nhìn về con người, lịch sử và thi ca. Ông biến trường ca vốn là một thể thơ "nặng" trở thành dòng chảy nghệ thuật đa tầng, vừa lắng sâu vừa rộng mở, mang dấu ấn của thời đại và của một tâm hồn không ngừng suy tưởng. Bài học lớn nhất từ Thanh Thảo là thơ phải có tư duy, phải dám làm khác, dám đối diện với bóng tối của chính mình, để từ đó vươn tới ánh sáng của cái đẹp. (còn tiếp)