Sửa đổi, bổ sung 10 luật về quản lý hành chính liên quan đến hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của lực lượng CAND

Bộ Công an chủ trì xây dựng và hoàn thành Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 10 luật về quản lý hành chính liên quan đến hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Công an nhân dân để phù hợp với định hướng, kết quả sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước.
Dự thảo Tờ trình dự án Luật cho biết, từ ngày 01/3/2025, cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đã thay đổi, từ 18 Bộ, 04 cơ quan ngang Bộ giảm xuống còn 14 Bộ, 03 cơ quan ngang Bộ; Bộ Công an hoạt động theo mô hình bộ máy mới (không tổ chức Công an cấp huyện), tiếp nhận các chức năng, nhiệm vụ mới (quản lý nhà nước về an toàn thông tin mạng; quản lý nhà nước và thực hiện bảo đảm an ninh hàng không; quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy; quản lý nhà nước về sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ; quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp và thực hiện dịch vụ công cấp Phiếu lý lịch tư pháp); một số cơ quan, đoàn thể khác trong hệ thống chính trị có liên quan đến hoạt động của lực lượng Công an nhân dân đã có sự thay đổi về tổ chức bộ máy. Do đó, cần phải rà soát, sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, hoạt động của lực lượng Công an nhân dân chịu tác động bởi kết quả, định hướng sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước.
Theo đó, Chính phủ thấy rằng có 10 luật về quản lý hành chính liên quan đến hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Công an nhân dân cần sửa đổi, bổ sung để phù hợp với định hướng, kết quả sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước, gồm: Luật Cảnh vệ, Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, Luật Cư trú, Luật Căn cước, Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở, Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ, Luật Đường bộ, Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
![]() |
Bộ Công an đề xuất Chính phủ đồng ý về việc trình Quốc hội khóa XV cho ý kiến và thông qua dự án Luật này tại Kỳ họp thứ 10. |
Bên cạnh những nội dung cần sửa đổi, bổ sung để phù hợp với định hướng, kết quả sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước, quá trình thực hiện Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, Luật Cư trú, Luật Căn cước, Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ gặp một số khó khăn, vướng mắc cần phải cấp bách sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tiễn và bảo đảm thống nhất với hệ thống pháp luật, cụ thể như sau:
Đối với Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam
- Điều 12 Luật này quy định về các trường hợp được miễn thị thực. Cần bổ sung trường hợp được miễn thị thực đối với người nước ngoài thuộc diện ưu đãi được miễn thị thực theo quyết định của Chính phủ để phù hợp với thực tiễn.
- Điểm b khoản 1 Điều 36 quy định trường hợp được cấp thẻ tạm trú và ký hiệu thẻ tạm trú đối với “Người nước ngoài nhập cảnh bằng thị thực có ký hiệu LV1, LV2, LS, ĐT1, ĐT2, ĐT3, NN1, NN2, DH, PV1, LĐ1, LĐ2, TT”. Cần chỉnh lý thành “Người nước ngoài thuộc trường hợp được cấp thị thực có ký hiệu LV1, LV2, LS, ĐT1, ĐT2, ĐT3, NN1, NN2, DH, PV1, LĐ1, LĐ2, TT” nhằm tạo điều kiện cho người nước ngoài và doanh nghiệp, phù hợp với thực tiễn.
Đối với Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam
- Khoản 2 Điều 21 Luật này quy định về trường hợp chưa cấp giấy tờ xuất nhập cảnh đối với “Người bị tạm hoãn xuất cảnh, trừ trường hợp quy định tại khoản 12 Điều 37 của Luật này”. Tuy nhiên, cần loại trừ việc chưa được cấp giấy tờ xuất nhập cảnh đối với trường hợp thuộc diện tạm hoãn xuất cảnh trong trường hợp người đó đang ở nước ngoài (vì trên thực tế trường hợp này vẫn cần cấp hộ chiếu để về nước theo yêu cầu của cơ quan chức năng).
- Điều 27 Luật này quy định về các trường hợp thu hồi, hủy giá trị sử dụng hộ chiếu. Cần bổ sung thêm các trường hợp bị hủy giá trị sử dụng hộ chiếu, gồm: trường hợp được cấp lại hộ chiếu mới; hộ chiếu đã được cấp bị sai chi tiết nhân thân; trường hợp bị hủy giá trị sử dụng hộ chiếu của người đang bị truy nã để phù hợp với thực tiễn.
- Điều 36 Luật này quy định về các trường hợp bị tạm hoãn xuất cảnh. Cần bổ sung vào diện tạm hoãn xuất cảnh đối với người đang bị truy nã để phù hợp với thực tiễn.
- Tại khoản 3 Điều 6, khoản 2 Điều 12, khoản 1 Điều 15, khoản 1a Điều 16, khoản 1 Điều 41 Luật này quy định về “chứng minh nhân dân”, “số chứng minh nhân dân”. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung để thống nhất với quy định của Luật Căn cước.
Đối với Luật Cư trú
Cần sửa đổi, bổ sung khoản 8 điều 21 Luật này theo hướng loại trừ trường hợp người đăng ký thường trú quy định tại khoản 2 Điều 21 là người chưa thành niên thì trong tờ khai thay đổi thông tin cư trú không bắt buộc phải ghi rõ ý kiến đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Vì tại khoản 2 Điều 21 đã có quy định về việc phải có ý kiến đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ.
Đối với Luật Căn cước
Cần sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 25 Luật này theo hướng bổ sung trường hợp cấp đổi thẻ căn cước khi thông tin trên thẻ căn cước thay đổi do sắp xếp đơn vị hành chính theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 24 thì được thực hiện trực tuyến trên Cổng dịch vụ công, ứng dụng định danh quốc gia để phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân.
Đối với Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ
- Cần sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 34 Luật này như sau: “Phương tiện giao thông thông minh là xe cơ giới cho phép tự động hóa toàn bộ hoạt động điều khiển phương tiện, xác định lộ trình và xử lý tình huống khi tham gia giao thông đường bộ”. Lý do:
+ Căn cứ quy định tại khoản 4, khoản 6 Điều 34, khoản 7 Điều 41 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Thông tư số 53/2024/TT-BGTVT ngày 15/11/2024 quy định về phân loại phương tiện giao thông đường bộ và dấu hiệu nhận biết xe cơ giới sử dụng năng lượng sạch, năng lượng xanh, thân thiện môi trường và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe ô tô QCVN 09:2024/BGTVT phù hợp với phân loại quốc tế ISO/SAE PAS 22736:2021 Phân loại và định nghĩa đối với các thuật ngữ liên quan đến hệ thống tự lái của xe cơ giới. Theo đó, phương tiện giao thông thông minh được chia làm 5 cấp độ gồm: (1) Xe cơ giới cho phép tự động hóa một phần hoạt động điều khiển phương tiện, xác định lộ trình và xử lý tình huống khi tham gia giao thông đường bộ là các xe thuộc cấp độ 1, cấp độ 2, cấp độ 3 theo tiêu chuẩn ISO/SAE PAS 22736:2021 (sau đây viết tắt là xe cơ giới tự động hóa một phần); (2) Xe cơ giới cho phép tự động hóa toàn bộ hoạt động điều khiển phương tiện, xác định lộ trình và xử lý tình huống khi tham gia giao thông đường bộ là các xe thuộc cấp độ 4, hoặc cấp độ 5 được phân loại và định nghĩa trong tiêu chuẩn ISO/SAE PAS 22736:2021 (sau đây viết tắt là xe cơ giới tự động hóa toàn bộ).
+ Thực tế hiện nay rất nhiều xe ô tô con tầm trung, cao cấp nhập khẩu và sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam đã có chức năng hỗ trợ người lái đạt cấp độ 1 và tiệm cận cấp độ 2 theo tiêu chuẩn ISO/SAE PAS 22736:2021. Do đó, theo quy định tại khoản 4 Điều 34 của Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ thì các xe này được xếp vào nhóm phương tiện giao thông thông minh và phải cấp phép hoạt động theo quy định tại khoản 3 Điều 35.
Đối với các xe cơ giới thuộc cấp độ 1, cấp độ 2, thậm chí là cấp độ 3 (tự lái có điều kiện): về cơ bản chỉ là chức năng hỗ trợ, trợ giúp người lái trong một số điều kiện, tình huống, phạm vi nhất định, không thể thay thế hoàn toàn được người lái, ví dụ như: chức năng tự động giữ làn đường, giữ khoảng cách, phanh khẩn cấp, cảnh báo hoặc không cho phép chuyển làn khi có xe vượt, tự động đỗ vào vị trí để xe... các chức năng này giúp người lái giảm căng thẳng, mệt mỏi khi chạy đường dài, giữ khoảng cách an toàn, phát hiện sớm các nguy cơ, phản ứng nhanh trước các tình huống nguy hiểm đột ngột... nên về cơ bản là giúp tăng khả năng an toàn của xe trong khi di chuyển trên đường. Các chức năng này có thể được kích hoạt hay không phụ thuộc vào quyết định của người lái. Qua đánh giá thực trạng hoạt động trên đường thì loại xe này phù hợp để hoạt động theo điều kiện giao thông của Việt Nam hiện nay. Vì vậy, không nhất thiết phải hạn chế, cấp phép hoạt động các xe loại này.
Đối với các xe cơ giới thuộc cấp độ 4, cấp độ 5 (xe cơ giới tự động hóa toàn bộ): trên thế giới hiện nay chỉ có tại Trung Quốc thí điểm hoạt động xe taxi không người lái tại Vũ Hán, một số khu vực tại Trùng Khánh, Bắc Kinh, Thượng Hải nhưng vẫn trong giai đoạn đánh giá về độ an toàn, tin cậy, chưa phát triển đại trà được. Một số nước phát triển khác như Hoa Kỳ, EU mới thử nghiệm xe ô tô tự lái cấp độ 4 trong một phạm vi nhất định và vẫn phải yêu cầu có người lái hoặc người giám sát trên xe. Xét theo điều kiện giao thông của Việt Nam hiện nay thì loại xe cơ giới tự động hóa toàn bộ chưa phù hợp để hoạt động, có nguy cơ gây tai nạn cao, nên cần phải hạn chế, phải cấp phép hoạt động đối với các xe loại này (bao gồm cả các xe chạy thử nghiệm thuộc đối tượng nghiên cứu phát triển có nhu cầu tham gia giao thông đường bộ).
- Cần sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 35 Luật này theo hướng bổ sung quy định xe kinh doanh vận tải phải lắp thiết bị ghi nhận hình ảnh người lái xe; xe vận tải nội bộ phải lắp thiết bị giám sát hành trình và thiết bị ghi nhận hình ảnh người lái xe. Lý do: quy định xe ô tô kinh doanh vận tải, xe vận tải nội bộ phải lắp thiết bị giám sát hành trình và thiết bị ghi nhận hình ảnh người lái xe nhằm bảo đảm cho phương tiện kinh doanh vận tải được quản lý chặt chẽ hơn, phục vụ công tác phòng ngừa, phát hiện các vi phạm trật tự an toàn xã hội trên phương tiện giao thông đường bộ, như: giám sát việc chấp hành pháp luật về trật tự, an toàn giao thông của người lái xe (sử dụng điện thoại, thiết bị điện tử khi lái xe, chở quá số người quy định, không thắt dây đai an toàn, buông cả 2 tay khỏi vô lăng, dùng chân điều khiển vô lăng,…); phát hiện các hành vi vi phạm về trật tự, an toàn xã hội (hành hung giữa hành khách và lái xe,…), truy tìm tội phạm được chở trên xe ô tô kinh doanh vận tải.
- Cần sửa đổi, bổ sung điểm g khoản 1 Điều 57 Luật này theo hướng bỏ quy định người có giấy phép lái xe hạng D1 được phép điều khiển xe của hạng C. Lý do: hạng D1 cấp cho người lái xe ô tô chở người trên 08 chỗ (không kể chỗ của người lái xe) đến 16 chỗ (không kể chỗ của người lái xe), hạng C cấp cho người lái xe ô tô tải và ô tô chuyên dùng có khối lượng toàn bộ theo thiết kế trên 7.500 kg. Xe ô tô đến 16 chỗ có khối lượng, kích thước nhỏ hơn rất nhiều so với xe tô tô tải trên 7.500 kg, ngoài ra kỹ năng điều khiển xe ô tô 16 chỗ cũng rất khác so với kỹ năng điều khiển xe ô tô tải trên 7.500 kg, vì vậy quy định cho người có giấy phép lái xe hạng D1 được điều khiển xe của hạng C sẽ rất nguy hiểm, tiềm ẩn nguy cơ gây tai nạn giao thông đường bộ.
- Cần sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 5 Điều 62 Luật này theo hướng bổ sung trường hợp “người được cấp giấy phép lái xe có hành vi gian dối để được cấp, đổi, cấp lại giấy phép lái xe” thì bị thu hồi giấy phép lái xe. Lý do: để đảm bảo quản lý chặt chẽ đối với việc cấp, đổi, cấp lại giấy phép lái xe do những năm gần đây, việc mua bán giấy phép lái xe diễn ra phổ biến và có hiện tượng sử dụng giấy phép lái xe giả để đổi, cấp lại giấy phép lái xe.
- Cần sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 64 Luật này theo hướng bỏ quy định “thời gian lái xe của người lái xe ô tô không quá 48 giờ trong một tuần” mà chỉnh lý theo hướng thời gian làm việc của người lái xe trong một tuần thực hiện theo quy định của Bộ luật Lao động; giữ nguyên quy định thời gian lái xe của người lái xe ô tô không quá 10 giờ trong một ngày và lái xe liên tục không quá 04 giờ. Lý do: theo kiến nghị của Hiệp hội vận tải và doanh nghiệp kinh doanh vận tải hiện nay thì việc quy định thời gian lái xe trong tuần, thời gian lái xe liên tục của Luật Trật tự, an toàn giao thông là chưa phù hợp với quy định chung của một số nước trong khu vực và khó khăn cho hoạt động vận tải, bố trí lái xe của doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu theo quy định của Luật.
Đối với Luật Đường bộ
Cần sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 4 Điều 39 Luật này theo hướng bỏ quy định xử lý vi phạm tải trọng của cơ quan quản lý đường bộ, cơ quan chức năng có thẩm quyền, tổ chức được giao quản lý, vận hành, khai thác, bảo trì công trình đường bộ sử dụng công trình kiểm soát tải trọng xe. Lý do: tại điểm d khoản 4 Điều 39 Luật Đường bộ quy định: dữ liệu thu thập từ công trình kiểm soát tải trọng xe phải được kết nối, chia sẻ kịp thời với lực lượng Cảnh sát giao thông để xử lý vi phạm pháp luật để bảo đảm thống nhất, một đầu mối xử lý vi phạm hành chính là lực lượng Cảnh sát giao thông.
Do đó, việc xây dựng, ban hành dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật nêu trên theo trình tự, thủ tục rút gọn là rất cần thiết.
Toàn văn dự án Luật được đăng trên Cổng Thông tin điện tử Bộ Công an để lấy ý kiến của nhân dân trong thời gian 20 ngày. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể xem toàn văn dự thảo và tham gia đóng góp ý kiến chi tiết tại đây.