Sếu vương miện lần đầu đẻ trứng ở Thảo Cầm Viên: Tập tính sinh sản hiếm thấy

Thảo Cầm Viên Sài Gòn lần đầu ghi nhận sếu vương miện sinh sản thành công. Quá trình làm tổ, đẻ trứng, ấp trứng của loài chim quý hiếm này hé lộ nhiều tập tính khác lạ, hiếm thấy.
Ông Nguyễn Bá Phú, Phó giám đốc Xí nghiệp động vật Thảo Cầm Viên Sài Gòn cho biết, nơi này hiện nay đang nuôi và bảo tồn 2 loài sếu - sếu vương miện và sếu Nhật Bản.
Cụ thể, có 4 cá thể sếu vương miện, nguồn gốc từ châu Phi, được nhập về Thảo Cầm Viên Sài Gòn năm 2017, gồm 2 con đực và 2 con cái.
Mục đích ban đầu của việc nhập khẩu loài chim kích thước lớn, có ngoại hình thu hút này là nhằm phục vụ công tác trưng bày, giúp du khách chiêm ngưỡng những loài không xuất hiện trên lãnh thổ Việt Nam, đồng thời nằm trong kế hoạch bảo tồn và phát triển nguồn thú ngoại nhập.
Thời điểm nhập về, sếu khoảng hơn 1 tuổi và phải mất thêm 2 - 3 năm mới đạt đến tuổi trưởng thành hoàn toàn về mặt giới tính (thường là sau 3 năm tuổi). Mặc dù các cá thể sếu vương miện ở đây được chăm sóc và phát triển rất tốt về ngoại hình nhưng chúng không thực hiện hành vi sinh sản trong một thời gian dài.
Ban đầu, sếu vương miện được nuôi chung với sếu Nhật Bản và chim công. Tuy nhiên, việc nuôi chung này không phù hợp với nhu cầu tự nhiên của loài, cho nên đơn vị đã quyết định tách biệt 2 cặp sếu này sang một khu vực nuôi riêng biệt.
Việc chuyển sang khu cách ly đã mang lại kết quả rõ rệt vì loài sếu vương miện này cần môi trường tương tự để kích thích bản năng. Sau khi được bố trí khu vực rộng rãi với đầy đủ mảng xanh, hồ nước và vũng lầy, kèm theo việc trồng cỏ cao (giả lau sậy) để tạo thành những bức vách tự nhiên. Khoảng tháng 9.2024, sếu đã bắt đầu đẻ trứng và ấp thành công. Đây là lần đầu tiên Thảo Cầm Viên ghi nhận việc sinh sản của sếu vương miện.
Theo ông Phú, các loài chim nói chung và sếu nói riêng đều có tập tính và cần đảm bảo đúng nhu cầu về không gian, độ an toàn, sự cạnh tranh và mối đe dọa thì mới bắt đầu thực hiện hành vi làm tổ và sinh sản. Nếu không đảm bảo, chúng sẽ ngưng hoàn toàn hành vi này.
Khi bắt đầu đẻ trứng, sếu vương miện thể hiện tính bảo vệ lãnh thổ và bảo vệ ổ trứng cực mạnh. Chúng sẵn sàng lao tới, nhảy lên đá người chăm sóc, kể cả người quen thuộc.
Để giảm thiểu sự xáo động trong quá trình ấp trứng, đơn vị đã phải thay đổi quy trình điều chỉnh thời gian chăm sóc. Thay vì cho ăn vào buổi sáng như kế hoạch ban đầu, thì bắt buộc phải chuyển sang đầu giờ chiều. Hạn chế người tiếp xúc để đảm bảo con non phát triển ổn định, đơn vị đã chỉ định duy nhất một người tham gia chăm sóc kỹ thuật, tránh sự xuất hiện của người lạ khiến chim bố mẹ sợ hãi, gây hấn và giẫm đạp con non.
Do sếu không chấp nhận tổ do con người làm sẵn nên đơn vị chỉ làm công tác hậu cần bằng cách cung cấp vật liệu và hồ nước để tăng độ ẩm, cho phép sếu tự thiết kế ổ của mình.
Trong quá trình sếu ấp, khi trứng lăn ra khỏi ổ (có khi cách xa cả mét), người chăm sóc cũng không dám can thiệp hay lại gần để nhặt trứng cho vào ổ lại vì sợ động hơi khiến chúng bỏ ổ. Sau khi tham khảo tài liệu, đơn vị biết rằng sếu có khả năng tự gom trứng về ổ rất tốt nên vẫn để sếu thực hiện hành vi tự nhiên của mình.
Sếu vương miện có tập tính đẻ trứng và ấp nở khác biệt so với các họ chim khác. Chúng thường đẻ một ngày, ngưng một ngày. Ba trứng mất 6 ngày mới đẻ xong. Thời gian ấp trứng kéo dài khoảng 28 - 30 ngày. Khi con non đầu tiên nở, sếu mẹ có xu hướng đứng lên ra khỏi ổ, dẫn con đi ăn và hầu như chỉ ấp trứng còn lại vào buổi tối. Mặc dù hành vi này khiến người chăm sóc lo lắng trứng mất nhiệt và từng cân nhắc chuyển trứng sang máy ấp, nhưng cuối cùng, dựa trên tài liệu và kinh nghiệm, đơn vị vẫn tôn trọng yếu tố tự nhiên.
Sự kiên nhẫn này đã được đền đáp khi 3 con non nở cách nhau đúng 6 ngày. Việc sinh sản thành công của sếu vương miện ở Thảo Cầm Viên Sài Gòn cho thấy đối với các loài chim quý hiếm, việc chăm sóc không chỉ dừng lại ở dinh dưỡng và an toàn, mà còn cần sự tích lũy kinh nghiệm và điều chỉnh linh hoạt để làm sao tự nhiên của loài sẽ làm là tốt nhất trong khả năng tạo ra thế hệ mới. Đây là lứa sếu nở thành công đầu tiên, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong công tác bảo tồn loài ngoại nhập của đơn vị.