Nhảy đến nội dung
 

Nửa thế kỷ thay đổi quan niệm sinh đẻ ở Việt Nam - Báo VnExpress

Ông cụ chỉ tấm ảnh trắng đen đã loang lổ không nhận ra một thiếu niên gầy gò đội mũ rơm, nói chậm rãi: "Đây là thằng cả" rồi ngập ngừng "năm nào nhỉ". "Thằng cả" ấy - ông Hùng, năm nay đã ngoài 70 tuổi, nhắc bố "năm sơ tán B52" - đề cập trận "Điện Biên Phủ trên không" năm 1972 máy bay B52 Mỹ bắn phá Hà Nội.

Vợ chồng ông Khanh kinh doanh, sinh được 8 người con gồm 4 trai 4 gái, trong đó gái út nay hơn 50 tuổi. Cũng may, chiến tranh và khó khăn thời ấy không cướp đi của ông đứa con nào. Mỗi người con lập gia đình sớm sinh 3-5 đứa cháu cho ông, rồi cháu - chắt cưới vợ lấy chồng sản xuất thêm mỗi nhà 2-3 đứa nữa. Hiện giờ tính cả con cháu chắt chút chít, ông Khanh có gần 100 đứa trong đó lứa tuổi 30-50 nhiều nhất. Mỗi lần đám giỗ vợ ông, gia đình 5 thế hệ tập hợp tại ngôi nhà 5 tầng ngồi chật 10 mâm cỗ không đủ chỗ.

Vợ ông Khanh mất hơn 5 năm nay, ông ở với "thằng cả" một nhà tam đại đồng đường. Song, thời gian qua đi, mỗi lần có dịp đại gia đình gặp mặt, người ngồi quanh bàn phần lớn tóc đã hoa râm. Trẻ con dần dần ít hẳn. Đến thế hệ chắt của ông Khanh, nhiều đứa lập gia đình chỉ sinh một con và đến đời chít thì không ít đứa không muốn kết hôn.

"Ở thế hệ tôi, đẻ nhiều con mới là yêu nước, mới có người làm, người lao động. Nay, giới trẻ khác rồi, giục lập gia đình mãi không được", ông Khanh nói, rằng so với trước đây, hiện nay cuộc sống của cháu chắt "sướng" hơn rất nhiều so với thời ông, cha của chúng.

Không chỉ gia đình ông Khanh, nhiều gia đình khác ở ngôi làng ông đang sống, hay nhiều vùng đất khác trên cả nước cũng trải qua thay đổi rõ rệt giữa các thế hệ. Sự thay đổi của một gia đình tạo nên sự đổi thay của cả một xã hội, một đất nước, trong đó nổi bật nhất là vấn đề dân số.

Từ "ra sức đẻ" đến kêu gọi giảm sinh

"Những năm 60 của thế kỷ trước trung bình mỗi phụ nữ Việt Nam khi hết tuổi sinh đẻ có khoảng 7 con, thì bước vào thế kỷ 21 mức sinh giảm hẳn", GS.TS. Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số và Các vấn đề xã hội, Đại học Kinh tế quốc dân - một chuyên gia kỳ cựu nghiên cứu về dân số, trả lời VnExpress nhân dịp Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9.

Thống kê cho thấy năm 1945, Việt Nam chỉ có khoảng 23 triệu người - thuộc quy mô dân số nhỏ. Tuổi thọ trung bình người Việt khi ấy chưa đến 40, chết nhiều vì chiến tranh, bệnh tật, suy dinh dưỡng. Ngày nay, quy mô dân số lớn, vượt 100 triệu người, mật độ dân số rất cao. Theo Tổng cục Thống kê, dân số Việt Nam thời điểm 1/4/2024 là 101.112.656 người, xếp thứ 15 thế giới, thứ 3 Đông Nam Á (sau Indonesia, Philippines) và nhiều hơn tổng cộng dân số 6 nước Brunei, Campuchia, Lào, Malaysia, Singapore, Đông Timor.

Giai đoạn 1954-1975 là "thời kỳ bùng nổ dân số" Việt Nam. Ông Cử cho rằng thời điểm này người dân "ra sức đẻ" bởi quan niệm "trời sinh voi sinh cỏ", chưa quan trọng sinh con chất lượng. Nhà nước cũng chưa có chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Người dân không được tuyên truyền, phổ biến tiếp cận biện pháp tránh thai như bao cao su hay đặt vòng.

Chất lượng dân số thấp, quá tải y tế, áp lực giáo dục, trẻ đẻ ra chết nhiều, nạn đói rồi chiến tranh, kinh tế thiếu thốn... Trước bối cảnh này, năm 1961, nhà nước quyết định "sinh đẻ có hướng dẫn", đánh dấu sự ra đời công tác dân số ở Việt Nam. Dân số vẫn tiếp tục tăng, đạt gần 50 triệu người vào năm 1976. Khi chiến tranh kết thúc, vấn đề dân số được quan tâm nhiều hơn, nhà nước áp dụng chính sách "mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có từ 1 đến 2 con" nhằm mục đích giảm sinh.

Ông Mai Xuân Phương, nguyên Vụ phó Truyền thông - Giáo dục, Tổng cục Dân số, nay là Cục Dân số, Bộ Y tế, nhìn nhận đến những năm 1991-2000 dân số Việt Nam mới mở ra "trang sử mới". Người dân bắt đầu có ý thức "sinh đẻ có kế hoạch", cán bộ dân số "đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng" để vận động, phổ biến, phát phương tiện kế hoạch hóa là bao cao su. Nhà nước khuyến khích mỗi gia đình chỉ có 1-2 con, Đảng viên sinh con thứ 3 sẽ bị kỷ luật.

Tại Nam Định, mô hình làng sinh kế trở thành "làng điểm" trong phong trào kế hoạch hóa gia đình cả nước. Những năm 90, mỗi gia đình ở đây trung bình có 5-6 con. Khi cán bộ dân số tuyên truyền kế hoạch hóa, người dân từ chối. Song, sau 5 năm kiên trì khẩu hiệu "nuôi 2 đứa cho tốt hơn 6 đứa đói no thất thường", nơi đây đã trở thành "làng sinh kế kiểu mẫu": mỗi gia đình có 2 con.

Những nỗ lực giảm sinh giúp Việt Nam đạt mức sinh thay thế (2,09 con/phụ nữ) từ năm 2006, tương tự Nhật Bản năm 1961, Hàn Quốc 1985. Mức sinh về sau mỗi năm một giảm. Số con trung bình của một bà mẹ giảm, dẫn đến tỷ suất sinh thô giảm (tức số trẻ sinh ra sống trên 1.000 dân) và số trẻ sinh ra mỗi năm giảm mạnh. Năm 1989, cả nước có 64 triệu dân với hơn 1,9 triệu trẻ chào đời trong năm. Năm 2024, dân số tăng lên, đạt hơn 101 triệu nhưng chỉ 1,3 triệu trẻ em sinh ra trong năm, nghĩa là so với 35 năm trước đã giảm 60 vạn ca sinh một năm.

"Việc sinh đẻ đã chuyển từ hành vi mang tính tự nhiên, bản năng sang hành vi có kế hoạch, văn minh; từ bị động sang chủ động; từ số lượng nhiều chất lượng thấp sang số lượng ít chất lượng cao; từ sinh đẻ ít trách nhiệm sang sinh đẻ có trách nhiệm đầy đủ hơn. Đây thực sự là một trong những biến đổi xã hội sâu sắc nhất ở Việt Nam", GS Cử nhận xét.

Từ năm 2018, mức sinh có xu hướng giảm sâu dưới mức sinh thay thế. Trong đó, mức sinh năm 2024 chỉ đạt 1,91 con/phụ nữ tuổi sinh đẻ - thấp kỷ lục. Như vậy, hiện phụ nữ Việt Nam chỉ sinh số con chưa bằng 1/3 cách đây nửa thế kỷ. Tỷ lệ tăng dân số cũng giảm từ trên 3,3%/năm giai đoạn 1955-1965, còn 0,8% vào năm 2024.

Mức sinh thấp tác động sâu sắc đến cơ cấu dân số, làm suy giảm nhóm dân số trong độ tuổi lao động, đẩy nhanh quá trình già hóa và ảnh hưởng tiêu cực đến quy mô dân số. Các chuyên gia lo ngại nếu không có biện pháp kịp thời, Việt Nam có thể đối mặt với nguy cơ "sụp đổ dân số", gây tê liệt nền kinh tế.

Thích ứng già hóa

Thực tế, dân số Việt Nam đang già hóa quá nhanh với số lượng người cao tuổi không ngừng tăng lên cả về số lượng và tỷ lệ. Theo thống kê, năm 2011, Việt Nam đã bước vào giai đoạn già hóa dân số và dự báo, năm 2038 sẽ trở thành nước có "dân số già". Đặc biệt, quá trình già hóa của nước ta chỉ diễn ra trong 27 năm (2011-2038) là dân số đã đạt đến ngưỡng "dân số già". Trong khi đó, Pháp phải mất 115 năm, Thụy Điển 85 năm, Australia 73 năm, Mỹ 69 năm và Nhật 26 năm.

"Điều này cho thấy nhịp độ già hóa ở nước ta diễn ra rất nhanh và nhanh hơn nhiều so với các nước đã phát triển", ông Cử nói.

Già hóa dân số là một trong các thách thức của công tác dân số, tác động đến tăng trưởng kinh tế, an sinh xã hội, lao động, thiết kế cơ sở hạ tầng, đặc biệt trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Già hóa dân số cũng làm cơ cấu dân số trong độ tuổi lao động giảm đi, cơ cấu nghề nghiệp sẽ thay đổi, gánh nặng kinh tế cho người lao động trẻ cũng cao hơn...

Bước sang thế kỷ XXI, dân số Việt Nam xuất hiện nhiều xu hướng chưa từng có tác động mạnh mẽ theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực đến sự phát triển nhanh, bền vững của nước ta. Chính vì vậy, cần luật hóa việc tính toán đầy đủ những xu hướng nói trên vào chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức.

"Nói cách khác, cần luật hóa việc đánh giá tác động của dân số trong mọi kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội", GS Cử đề xuất.

Trước bối cảnh này, Bộ Y tế đang xây dựng Luật Dân số và Chương trình mục tiêu chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035. Trong dự thảo Luật Dân số, Bộ Y tế đề xuất nhiều ưu tiên trọng tâm để khuyến sinh, giảm mất cân bằng giới tính khi sinh, thích ứng với dân số đang già đi, như tăng thời gian nghỉ thai sản, hỗ trợ tiền mặt hoặc quà tặng khi sinh con.

Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan cho biết Dự thảo Luật Dân số đã được Bộ Tư pháp thẩm định dự kiến trình Chính phủ để đưa ra Quốc hội có ý kiến, dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ 10 (tháng 10/2025).

Trong khi chờ luật hóa khuyến sinh, các chắt - chít của ông Khanh vẫn dè dặt trong quyết định sinh thêm con hay có kết hôn không. "Tôi bảo với các con là nếu con cháu của con sinh chắt chít của bố cứ đưa về đây bố mẹ chăm để chúng nó rảnh rang lo sự nghiệp, nhưng đến nay bàn ăn nhà tôi chỉ toàn người lớn thôi", "thằng cả" của ông Khanh cho biết.

Lê Nga

 
 
 
logo
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN

GPĐKKD: 0103884103 do sở KH & ĐT TP Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Địa chỉ: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season,  47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

MIỀN BẮC

Địa chỉ Showroom: D11-47 KĐT Geleximco Lê Trọng Tấn, Hà Đông, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

MIỀN NAM

Địa chỉ VPGD: 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn