Nổi chìm văn hóa cù lao - bài cuối: Thách thức bảo tồn những 'viên ngọc quý'

TP - Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), có hệ thống cồn, bãi, cù lao dày đặc, mang đậm bản sắc sông nước miền Tây. Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát triển bền vững những “viên ngọc quý” này đang đặt ra nhiều thách thức trước nhu cầu phát triển xã hội và biến đổi khí hậu.
Giữ “báu vật sông nước”
Ông Vũ Thống Nhất, nguyên Phó Chủ tịch Hội Nhà văn thành phố Cần Thơ cho biết, Cần Thơ ngoài khoảng 60km chiều dài sông Hậu chảy qua, với nhiều cồn, bãi lớn giữa sông, như: Cồn Tân Lộc, cồn Sơn, cồn Khương, cồn Cái Khế, cồn Ấu. Đó là “báu vật sông nước” của Cần Thơ, có nhà đầu tư Nhật Bản từng thốt lên khi tới các cồn đó rằng “chỉ cần bán không khí cũng hốt bạc”.
![]() |
Khách du lịch đến tham quan tại Cồn Sơn, thành phố Cần Thơ. Ảnh: Hòa Hội. |
Bên cạnh tạo cảnh, sinh kế cho người dân, các cồn bãi, cù lao, theo ông Nhất, còn là “lá phổi xanh”, tạo khí hậu trong lành, giải nhiệt cho thành phố. Cuộc sống của người dân trên các cồn, cù lao đều rất yên bình, nhân nghĩa, rộng mở và chan hòa, mến khách. Sự ôn hòa truyền hết đời này sang đời khác. Ý thức sinh tồn biệt lập giữa mênh mang sông nước đã làm cho con người gắn bó, đùm bọc nhau. “Cồn là nơi gần như còn nguyên sơ, thể hiện, lưu giữ rõ nét nhất về văn minh sông nước miệt vườn từ kỹ thuật dẫn nước, lên liếp làm vườn, trồng cây, nuôi cá trên bè, trong lồng… vô cùng sáng tạo, hiệu quả”, ông Nhất nói.
Ông Nhất cũng cho rằng, những đặc trưng trên tạo lợi thế cho cồn bãi trong chỉnh thể “đô thị sông nước” Cần Thơ. Tuy nhiên, câu chuyện gìn giữ và bảo tồn các cồn không chỉ riêng Cần Thơ, các địa phương trong vùng ĐBSCL cũng đặt ra nhiều thách thức. Do các cồn, cù lao đang bị thiên nhiên tác động mạnh, đặc biệt biến đổi khí hậu những năm gần đây, khiến tình hình xói lở ngày càng lan rộng, nghiêm trọng, khốc liệt, cồn cứ nhỏ dần. Bên cạnh đó, hiện rất khó tạo ra sự nối kết giữa các cồn trên sông để khai thác hiệu quả, bởi mỗi cồn đã quy hoạch những dự án riêng lẻ, bối cảnh, không gian, kết cấu, môi trường… đã thay đổi quá nhiều. Cồn Cái Khế hầu như đã thành đô thị 100%, cồn Khương có khu biệt thự, cồn Ấu quy hoạch cho khu nghỉ dưỡng, sân golf; cồn Tân Lộc và cồn Sơn một thời cũng đánh mất bản sắc vì phong trào đào hầm nuôi cá, nay mới khôi phục du lịch.
![]() |
Cồn Hô (Trà Vinh) sạt lở nghiêm trọng. Trong ảnh: Cột điện 500kW trơ giữa sông Cổ Chiên. |
“Cồn là tài sản, vốn quý thiên nhiên và tiền nhân truyền lại cả trăm năm, ghi lại việc hình thành, phát triển văn hóa bản địa. Do đó, trước nhất phải thể hiện sự tôn trọng, nâng tầm ứng xử đối với các cồn. Cây xanh còn được công nhận cây di sản, cồn cũng phải được tôn trọng, ứng xử như đối với di sản”, ông Nhất nói.
Nguyên Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Cần Thơ cho rằng, đầu tư phát huy thế mạnh, đặc trưng của cồn để làm du lịch rất hay. Tuy nhiên, phải đảm bảo thân thiện với môi trường, thận trọng, tránh đô thị hóa cồn. Thời gian, tiền bạc có thể cho ta cơ sở hạ tầng đẳng cấp. Nhưng bảo tồn được không gian sống, tôn trọng tự nhiên, giữ gìn bản sắc văn hóa bản địa cần quy hoạch hài hòa, bền vững, tạo dấu ấn đặc trưng của không gian đô thị sông nước.
Ở ĐBSCL có hàng trăm cồn, cù lao lớn, nhỏ, nhưng theo ông Nhất, để giữ được văn hóa, bữa cơm đặc trưng và làm du lịch tốt như ở cồn Sơn rất hiếm. “Cơm ở cồn Sơn rất đặc trưng, mỗi nhà góp 1 món ăn để phục vụ cho khách. Họ không hề tranh giành, đố kỵ với nhau, tất cả đều muốn tạo nên sự gắn kết, cùng phát triển, điều đó làm cho cồn Sơn mang vẻ đẹp riêng, có một không hai, các cồn khác có thể học hỏi”, ông Nhất nói thêm.
![]() |
Khách du lịch trải nghiệm Chợ Quê Tân Thuận Đông, tỉnh Đồng Tháp. Ảnh: Hòa Hội. |
Phát huy thế mạnh cù lao, cồn bãi
ĐBSCL có hệ thống kênh rạch chằng chịt, nhiều cù lao, cồn bãi rộng gắn với nét văn hóa sông nước miệt vườn. Đây là tiềm năng rất lớn đối với Cần Thơ nói riêng và các địa phương trong vùng để khai thác du lịch. Hiện, Cần Thơ ưu tiên phát triển loại hình du lịch đường sông, lấy sản phẩm đặc trưng từ các cù lao, cồn làm chủ đạo. Ngoài tài nguyên sông nước, văn hóa đặc trưng, cồn bãi còn nhiều vườn cây ăn trái.
Lãnh đạo Sở VH,TT&DL Cần Thơ cho hay, du lịch cồn bãi có nhiều sản phẩm đặc trưng, chưa bị đô thị hóa. Trên cồn bãi cuộc sống người dân gắn với ruộng vườn, sinh hoạt sông nước truyền thống, chợ nổi gắn với sông nước, không gian văn hóa đờn ca tài tử đậm chất Nam Bộ. Đặc biệt, tận dụng lợi thế đường sông dọc sông Hậu và sông Cần Thơ, cù lao Tân Lộc (quận Thốt Nốt), cồn Sơn (quận Bình Thủy) để phát triển du lịch sông nước.
![]() |
Khách du lịch đến tham quan tại Cồn Sơn, thành phố Cần Thơ. Ảnh: Hòa Hội. |
Còn Đồng Tháp, được đánh giá có nhiều cảnh quan sinh thái đặc trưng của ĐBSCL với sông nước, kết hợp với các giá trị văn hóa - lịch sử của cộng đồng. Bà Lê Thị Mai Trinh, Phó Giám đốc Sở VH,TT&DL Đồng Tháp cho biết, với các điều kiện lợi thế đó, tỉnh Đồng Tháp định hướng phát triển du lịch sinh thái, du lịch khám phá cảnh quan thiên nhiên, du lịch trải nghiệm... Bên cạnh đó, các hình thức du lịch miệt vườn, du lịch sông nước, kênh rạch, đặc thù của các cù lao, cồn là những sản phẩm được đánh giá cao để phát triển.
Cũng theo bà Trinh, định hướng đến năm 2030 của tỉnh Đồng Tháp phát triển loại hình du lịch sông nước dọc tuyến sông Tiền và sông Hậu với các khu vực cồn trên sông như cồn Bình Thạnh, cù lao Tân Thuận Đông… tạo nên hành trình du lịch khám phá sinh thái, văn hóa trên sông độc đáo và hấp dẫn. Cùng với đó, tỉnh sẽ phát triển du lịch cộng đồng trên nền tảng của mô hình Hội quán du lịch, như dịch vụ lưu trú cộng đồng (homestay), dịch vụ ăn uống, dịch vụ trải nghiệm cuộc sống sinh hoạt cùng người dân địa phương, đặc biệt tại các cồn bãi, cù lao, nơi ít bị đô thị hóa.
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về sinh thái ĐBSCL cho biết, sạt lở ở ĐBSCL, đặc biệt các cồn bãi, cù lao đang diễn ra trên diện rộng, và không còn tự nhiên nữa. Phù sa sông Mê Kông đưa ĐBSCL tiến thêm ra biển Đông trung bình 16m/năm và mở rộng theo hướng Cà Mau trung bình 26m/năm. Tuy nhiên, các thống kê chỉ ra, từ năm 1992 tới nay, sạt lở ngày càng tăng, bồi đắp lại giảm, cho thấy xu hướng sạt lở đang nhanh hơn bồi lắng mới. Đặc biệt, từ năm 2005 tới nay, đường bờ biển ĐBSCL đã chuyển từ tình trạng bồi lấn sang tình trạng xói lở, thụt lùi vào đất liền. Hiện nay khoảng 66%, tức hơn một nửa chiều dài bờ biển trong khu vực ĐBSCL đang sạt lở, điều này do thiếu lượng cát bồi lắng từ thượng nguồn về, tình trạng khai thác cát quá mức tại các lòng sông trong vùng… Để giảm sạt lở, chỉ có giải pháp xây dựng công trình bảo vệ ở những nơi xung yếu, nguy cơ cao; quản lý, quy hoạch khai thác cát theo tinh thần liên kết vùng, liên tỉnh, vì khai thác cát ở một nơi sẽ ảnh hưởng toàn bộ dòng sông và bờ biển.