Nhảy đến nội dung
 

Những ngày tháng ấy

Tôi lên Pleiku, Gia Lai năm 1981 sau khi tốt nghiệp đại học. Năm 1984 thì lấy vợ. Nhà vợ ở Ayun Pa. Là nhà ở đấy thôi chứ ông tập kết lấy bà ở Hà Đông, về tiếp quản nhà máy điện Ayun Pa rồi ở đấy luôn.

Kể để thấy, tôi rất quen với con đường 7, giờ nó mang tên đường 25.

Từ hồi học đại học, những tháng học quân sự, chúng tôi đã được nghe các sĩ quan tuyên huấn kể về chiến dịch đường 7 lịch sử, những là ta và đối phương "lừa" nhau ra sao, "nhử" nhau thế nào, những cuộc hành quân giả rồi hành quân thật. Hành quân giả thì rầm rộ, trống giong cờ mở, vô tuyến gọi "tẹt ga", hành quân thật thì bí mật, đi không dấu nấu không khói, tắt toàn bộ vô tuyến, chỉ truyền tin miệng... Rồi đọc, mà cuốn "cận chiến" nhất của đường 7 là tiểu thuyết Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy.

Có hai người lính từng chinh chiến ở Tây nguyên từ thời 1975 ấy, sau này trở thành những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Và rất buồn là họ lại ra đi đúng thời điểm sát những ngày mà 50 năm trước họ từng chinh chiến ở đất này, ra đi trong tiếc thương và cả tự hào, bởi những gì họ đã làm và để lại cho đời (nhà văn Khuất Quang Thụy và nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha đều vừa qua đời tháng 3.2025 - TN).

Khi ấy, Khuất Quang Thụy là lính, lính thực thụ của Sư đoàn 320 nổi tiếng, đã cùng đồng đội ôm súng chạy suốt đêm xuyên rừng để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt là chặn đường 7, không cho đối phương rút từ Tây nguyên theo đường 7 xuống đồng bằng Tuy Hòa (Phú Yên).

Năm 1985, anh Khuất Quang Thụy từ Hà Nội vào lại Tây nguyên. Tôi và anh lọ mọ đi lại một số nơi mà anh bảo từng sống và chiến đấu. Hai anh em ngủ chung một cái giường đơn ở nhà khách ủy ban thị trấn Kbang, mà anh thì vừa to béo vừa... ngáy to. Chuyến đi ấy, anh viết một loạt tác phẩm về Tây nguyên và tại Tây nguyên như Nước mắt gỗ (truyện ngắn), Gửi em người trinh sát rừng xanh, Tiếng đàn (thơ)...

Cũng năm ấy, 10 năm sau ngày hòa bình lập lại, tôi gặp Nguyễn Thụy Kha tại Pleiku. Tôi ra sân bay Cù Hanh đón anh, lúc đó máy bay từ Hà Nội vào được đâu 2 chuyến một tuần, bằng máy bay AN24 của Liên Xô. Hai ngày sau khi tới Pleiku, anh Kha ôm đàn hát cho tôi nghe bài anh mới sáng tác: Những chuyến bay hòa bình, có đoạn điệp khúc: Những chuyến bay lên Tây nguyên, những chuyến bay hòa bình, những chuyến bay lên Pleiku, những chuyến bay không mang bom...

Sau đấy tôi cùng anh Kha lên phía bắc Tây nguyên, anh bảo thời chiến tranh từng đi rải dây thông tin ở đấy, đồng đội anh nằm lại đấy rất nhiều. Tới sân bay Đăk Tô, thấy dân phơi lúa, anh làm bài thơ rất hay: Những đứa trẻ chạy trên thóc, cái hình ảnh rất gợi với người từng sống ở nông thôn, mà anh lại là dân Hải Phòng.

Nhà văn Bảo Ninh, trong một chuyến du khảo xuyên Việt, thì đã đột ngột rời đoàn, một mình ngược ra lại hướng Đăk Tô dù đêm trước, anh đã ngồi nhà tôi ở Pleiku, cách Đăk Tô gần 200 km. Dù Nguyễn Trọng Tạo, Văn Như Cương, Trung Trung Đỉnh... đều bảo thôi theo đoàn đi, nhưng anh vẫn quyết quay trở lại, chỉ để thắp hương cho đồng đội, những người từng chiến đấu cùng anh, và thấp thoáng hình bóng trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Nỗi buồn chiến tranh.

Cũng một đêm, tôi chuẩn bị ngủ thì điện thoại reo. Cựu chiến binh Nguyễn Trọng Luân gọi, hỏi nhà ở đâu để mang quà tới. Quà là một lọ rêu đá khô, thứ nhún đá Ninh Bình mà tôi hay khen ngon vì nhớ cái thời tuổi thơ ở quê ngoại hay được ăn, và ông bạn nhà văn Sương Nguyệt Minh chiều tôi mà đi "tầm" bằng được để gửi.

Và té ra ông Nguyễn Trọng Luân này cũng từng là lính Quân đoàn 3, cũng từng tham gia trận đường 7 nổi tiếng ngày nào, giờ quay lại thăm chiến trường xưa. Giờ anh cũng trở thành nhà văn, vừa tham gia bộ phim tài liệu rất hay mới chiếu trên truyền hình: Thạnh Hội, tìm về những ngày tháng 3.1975 ấy. Phim có những tiếng nấc, có những trường đoạn ưu tư cùng nước mắt...

Trở lại đường 7, hồi ấy ngoài cuốn Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy thì bên đối phương có cuốn cũng rất hay của nhân viên tình báo CIA Frank Snepp, cuốn Cuộc tháo chạy tán loạn.

Và tàn dư của cuộc tháo chạy ấy đến giờ vẫn còn. Ấy là những cuộc đoàn tụ nhưng chưa đoàn viên, và vẫn còn những thất lạc, dẫu đã 50 năm.

Như chuyện vợ chồng ông Lục Văn Tiên, bà Nguyễn Thị Khiêm, năm 1975, trong cơn hoảng loạn chung, cả nhà theo đường 7 chạy xuống Tuy Hòa. Đến chân đèo Tô Na thì lạc mất đứa con gái tên là Lục Thị Hoa, khi ấy vừa 7 tuổi. Họ quyết định ở lại tìm con. Tìm trong đau đớn, tuyệt vọng, trong xa xót, ân hận. Té ra Hoa chạy lạc trong đêm và được một gia đình người Jrai ở xã Ia Rsươm, huyện Krông Pa nhặt về nuôi nấng.

Cô bé vẫn nhớ tên mình là Hoa nhưng đã trở thành một người Jrai thứ thiệt. Khi bố mẹ ruột tìm thấy và nhận ra con nhờ cái bớt trên má, Hoa đã lấy chồng - một thanh niên Jrai. Lại biết bao nhiêu là nước mắt, bao nhiêu lần lên xuống thăm hỏi..., bố mẹ nuôi mới đồng ý cho bố mẹ đẻ nhận con.

Mấy năm sau đấy, người đàn bà Jrai gốc Kinh này mới đưa chồng con về thăm bố mẹ đẻ ở Pleiku. Ông bà Tiên đã mua cho vợ chồng Hoa một căn nhà cạnh nhà mình. Ngày tôi đến tìm, Hoa đã có 3 đứa con là Rlan Lục Ma Chinh, Rlan Lục Mỹ Hạnh và Rlan Lục Lai Đức. Con lớn đã học đại học, đứa thứ hai học 11 và đứa thứ 3 học lớp 9.

Và Hoa vẫn thích về làng sống hơn, không thích ở thành phố...

Còn nhiều lắm, những câu chuyện một thời, hôm nay vẫn đầy khắc khoải...