Nhiều lợi thế để du lịch y tế Việt Nam có thể cạnh tranh sòng phẳng

Trong lĩnh vực nha khoa, trồng một chiếc implant ở Việt Nam mất 1.000-1.200 USD, bằng 1/5 so với Mỹ (khoảng 5.000 USD). Chi phí cạnh tranh là một trong những lợi thế lớn để thu hút, phát triển du lịch y tế ở nước ta.
Nghị quyết 72 của Bộ Chính trị “Về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân” nêu rõ nhiệm vụ phát triển y tế chuyên sâu đáp ứng yêu cầu thực tiễn và hội nhập quốc tế; tập trung phát triển một số trung tâm y tế chuyên sâu chất lượng cao ngang tầm khu vực, quốc tế để thu hút, phát triển du lịch chữa bệnh tại Việt Nam, giảm xu hướng người dân ra nước ngoài chữa bệnh.
Giá cạnh tranh, chất lượng chuyên môn cao
Trao đổi với VietNamNet, Tiến sĩ, bác sĩ Hà Anh Đức, Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh (Bộ Y tế), cho biết Việt Nam có nhiều lợi thế để phát triển thị trường du lịch y tế (du lịch chữa bệnh) như địa lý, tự nhiên, an ninh an toàn và nguồn nhân lực.
Năm 2024, Việt Nam có tên trong danh sách 110 quốc gia có hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt nhất thế giới, với vị trí xếp hạng 89/110 về chỉ số tổng thể. Việt Nam có điểm số cao về chỉ số cơ sở hạ tầng y tế và năng lực của đội ngũ chuyên gia y tế.
Một lợi thế lớn của y tế Việt Nam là mức giá cạnh tranh, thời gian chờ đợi ngắn, dịch vụ thân thiện, nhanh chóng. Lãnh đạo Bộ Y tế cho biết giá dịch vụ y tế tại Việt Nam chỉ bằng khoảng 30-50% so với các quốc gia như Singapore hay Thái Lan.
“Riêng lĩnh vực nha khoa, tại TPHCM mỗi năm thu 3.500 tỷ đồng. Trồng một chiếc implant ở Việt Nam chỉ khoảng 1.000-1.200 USD (khoảng 25 đến 30 triệu đồng), mức giá này chỉ bằng 1/5 so với Mỹ (khoảng 5.000 USD) và thấp hơn nhiều so với Thái Lan”, ông Đức dẫn chứng.
Ngoài ra, thực hiện dịch vụ y tế ở Việt Nam cũng tiết kiệm được các chi phí gián tiếp do thời gian đợi chờ được phẫu thuật hay chụp cộng hưởng từ (MRI), cắt lớp vi tính (CT)… nhanh, trong khi ở các nước có khi phải đợi 6 tháng mới thực hiện.
Về chất lượng chuyên môn khám chữa bệnh, các thầy thuốc Việt Nam làm chủ nhiều kỹ thuật cao, trình độ ngang tầm với các nước trong khu vực và thế giới, nhất là các chuyên ngành sâu như tim mạch, cơ xương khớp, nha khoa, thẩm mỹ, hỗ trợ sinh sản… Đây là lợi thế rất lớn của y tế Việt Nam có thể cạnh tranh "sòng phẳng" với quốc tế.
Tuy nhiên, chất lượng dịch vụ y tế của Việt Nam chưa hội nhập sâu rộng với bảng chất lượng toàn cầu. Việt Nam có 52.000 phòng khám, hơn 400 bệnh viện tư nhân, 1.600 bệnh viện công lập, nhưng đến nay chỉ có một bệnh viện công lập là Bệnh viện Huyết học - Truyền máu TPHCM và một số bệnh viện tư nhân đạt được tiêu chí JCI (tổ chức có uy tín trên thế giới trong việc thẩm định và công nhận chất lượng y tế với 1.300 tiêu chí kỹ lưỡng khắt khe). Chưa kể, trang thiết bị y tế (đặc biệt là khối tư nhân) hiện đại nhưng chúng ta lại thiếu quảng bá thương hiệu đó. Theo Tiến sĩ Đức, đó là một điểm yếu.
Thương hiệu du lịch y tế Việt Nam còn mờ nhạt, hoạt động tiếp thị quốc tế chưa hiệu quả, niềm tin thương hiệu, do ít cơ sở đạt chuẩn quốc tế và thiếu chiến lược quảng bá bài bản là rào cản lớn nhất hiện nay cho du lịch chữa bệnh ở nước ta dù đây là thị trường tiềm năng, đem lại lợi nhuận tỷ đô.
“Nhờ du lịch y tế, các nước quanh Việt Nam như Thái Lan thu một năm 6 tỷ USD, Singapore thu 2 tỷ, Nhật Bản thu 4 tỷ trong khi Việt Nam chỉ thu vài trăm triệu USD, con số rất khiêm tốn”, Tiến sĩ Đức thông tin.
Theo ông Đức, du lịch chữa bệnh không chỉ là sự kết hợp giữa y tế và du lịch, mà còn cần sự tham gia của nhiều lĩnh vực như tài chính, bảo hiểm, ngoại giao, cấp visa… để tạo thuận lợi tối đa cho du khách vừa nghỉ dưỡng vừa sử dụng dịch vụ y tế. Thực tế, việc điều phối giữa các lĩnh vực này chưa được chú trọng.
Hoàn thiện bộ tiêu chuẩn chất lượng cho các cơ sở khám chữa bệnh
Bộ Y tế đang xây dựng và lấy ý kiến về dự thảo Đề án Phát triển dịch vụ khám, chữa bệnh chất lượng cao và thúc đẩy du lịch y tế, thu hút người nước ngoài và người Việt Nam có khả năng chi trả giai đoạn 2025-2030. Đề án hướng tới năm 2030, ít nhất 15 bệnh viện đạt chuẩn chất lượng quốc tế (JCI hoặc tương đương), trong đó có tối thiểu 5 bệnh viện công lập.
Tất cả cơ sở thí điểm phải có bộ phận tiếp thị và truyền thông quốc tế, cung cấp thông tin bằng ba ngôn ngữ trở lên. Thực tế, nâng cao trình độ ngoại ngữ và kỹ năng phục vụ khách quốc tế được xem là yếu tố then chốt, đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ và tạo lợi thế cạnh tranh cho Việt Nam trên bản đồ du lịch y tế toàn cầu.
Về vai trò của Bộ Y tế, ông Đức cho biết trọng tâm là hoàn thiện bộ tiêu chuẩn chất lượng cho các cơ sở khám chữa bệnh, tham khảo và điều chỉnh theo JCI để phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Các bệnh viện sẽ thiết kế những gói dịch vụ trọn gói từ 2 ngày, 5 ngày đến 10 ngày, bao gồm phẫu thuật, thụ tinh trong ống nghiệm, thẩm mỹ hay hồi phục chức năng. Các gói này sẽ được kết nối với Cục Du lịch Quốc gia và doanh nghiệp lữ hành để quảng bá chính thống trên các kênh quốc tế.
Khách hàng có nhu cầu sẽ được hỗ trợ từ khâu liên hệ, đặt dịch vụ đến tổ chức thực hiện. Bộ Y tế cũng làm việc với cơ quan xuất nhập cảnh nhằm nghiên cứu cơ chế visa linh hoạt, thuận lợi hơn cho khách du lịch y tế. Đồng thời, các giải pháp về thanh toán quốc tế cũng cần được tối ưu để tạo sự tiện lợi và minh bạch.
Tuy nhiên, theo ông Đức, phát triển "du lịch chữa bệnh" không chỉ là câu chuyện của riêng ngành Y tế - Văn hóa, Thể thao và Du lịch mà còn liên quan nhiều bộ, ngành như Ngoại giao, Tài chính, Công an... vì thế Bộ Y tế sẽ tham mưu Chính phủ ban hành đề án mang tính phổ quát, với sự tham gia của nhiều bộ, ngành...