Tại lễ công bố lúc 13h ở Stockholm, Thụy Điển, ngày 9/10 (18h, giờ Hà Nội), ông Mats Malm - thư ký thường trực và người phát ngôn của Viện Hàn lâm Thụy Điển - công bố người thắng giải. Theo đại diện ủy ban trao giải, những cuốn sách của László Krasznahorkai "đầy sức hấp dẫn, giàu tầm nhìn, giữa nỗi kinh hoàng tận thế, tái khẳng định sức mạnh của nghệ thuật".
Ông Mats cho biết "vừa liên lạc được với László Krasznahorkai qua điện thoại, khi ông ấy đang có chuyến thăm Frankfurt, Đức". Chủ nhân của Nobel Văn học sẽ nhận phần thưởng 11 triệu krona Thụy Điển (hơn 1,1 triệu USD, khoảng 30,9 tỷ đồng). Nhà văn sẽ nhận huy chương và bằng khen trong một buổi lễ diễn ra vào tháng 12 tại Stockholm.
Anders Olsson, Chủ tịch Ủy ban Nobel, nhận định László Krasznahorkai được xem là bậc thầy sử thi Trung Âu, nối tiếp Kafka và Thomas Bernhard với phong cách văn chương phi lý, châm biếm, tràn ngập nỗi ám ảnh hiện sinh. Sau những tác phẩm u ám, ông hướng tầm nhìn sang phương Đông với giọng văn chiêm nghiệm.
Theo CNN, tiểu thuyết của Krasznahorkai thường lấy bối cảnh những ngôi làng lạnh lẽo ở Trung Âu, khắc họa con người trong hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời giữa một thế giới vắng bóng đức tin. Ở thời điểm chỉ có vài tác phẩm của ông được dịch sang tiếng Anh, nhà phê bình James Wood nhận xét "sách của Krasznahorkai được chuyền tay nhau như những đồng tiền hiếm".
László Krasznahorkai được xem là nhà văn Hungary đương đại quan trọng nhất. Một số tác phẩm gây tiếng vang của ông gồm tiểu thuyết Satantango (1985) và The Melancholy of Resistance (1989), được đạo diễn Béla Tarr chuyển thể thành phim. Ông được trao Giải thưởng Man Booker Quốc tế năm 2015 và thường được nhắc đến là ứng viên sáng giá cho Giải Nobel Văn học.
Nhà văn sinh năm 1954 tại Gyula (Hungary), trong một gia đình trí thức. Sau khi học luật và ngôn ngữ - văn học Hungary, ông làm biên tập viên rồi chuyển sang viết tự do. Tiểu thuyết đầu tay Satantango (1985) đưa ông lên vị trí trung tâm văn đàn trong nước. Hai năm sau, ông rời Hungary sang Tây Berlin theo học theo diện đạt học bổng, từ đó sống lang bạt qua nhiều quốc gia.
Những năm 1990, ông dành thời gian dài ở Mông Cổ, Trung Quốc và Nhật Bản, trải nghiệm này tác động mạnh đến bút pháp và thế giới quan của ông. Khi viết War & War (1999), Krasznahorkai từng sống trong căn hộ cũ của nhà thơ Allen Ginsberg tại New York (Mỹ), người hỗ trợ ông trong quá trình sáng tác.
Krasznahorkai nổi tiếng với phong cách viết phức tạp, những câu văn dài hàng trang, gần như không ngắt đoạn. Theo nhà phê bình George Szirtes, người dịch tác phẩm của Lázló sang tiếng Anh, văn của ông "chảy chậm như dòng dung nham đen, nặng nề, dồn nén và thôi thúc".
Một số tác phẩm của ông László Krasznahorkai từng được dịch sang tiếng Việt, gồm Chiến tranh và Chiến tranh (War and War), Vũ điệu quỷ Satan (Satantango), do Giáp Văn Chung chuyển ngữ, lần lượt xuất bản năm 2016 và 2022.
Năm ngoái, Han Kang trở thành người phụ nữ châu Á đầu tiên thắng Nobel Văn học nhờ các tác phẩm "đề cập trực diện những chấn thương lịch sử và phơi bày sự mong manh của kiếp người".
Giải Nobel Văn học lấy lại uy tín sau bê bối năm 2018. Khi ấy, Nobel Văn học gặp tai tiếng do Jean-Claude Arnault, chồng của nhà thơ Katarina Frostenson - thành viên chủ chốt trong Hội đồng Viện Hàn lâm Thụy Điển - bị tố cáo lạm dụng nhiều phụ nữ. Ngoài ra, ông đã làm rò rỉ tên người chiến thắng bảy lần, kể từ năm 1996.
Nobel Văn học là một trong sáu hạng mục của giải Nobel, trao cho tác giả ở bất kỳ quốc gia nào, theo di chúc của nhà hóa học Alfred Nobel.
Đây là giải thưởng cao quý trong giới văn chương, do tiêu chí vinh danh toàn bộ sự nghiệp của nhà văn thay vì một tác phẩm cụ thể. Sự kiện mỗi năm đều thu hút quan tâm lớn của nhiều tác giả, nhà nghiên cứu. Ngoài ra, đây cũng là một trong những giải văn học có số tiền thưởng cao nhất.
Tháng 9 hàng năm, Ủy ban Nobel sẽ gửi đơn đề cử đến hàng trăm cá nhân, tổ chức đủ điều kiện. Theo luật, những người đủ điều kiện gồm thành viên của Viện Hàn lâm Thụy Điển và các viện, tổ chức, hiệp hội có mục đích tương tự; giáo sư văn học và ngôn ngữ học tại các trường đại học và cao đẳng; những người từng đoạt giải Nobel Văn học; Chủ tịch các hiệp hội tác giả của các quốc gia. Đơn đề cử hoàn chỉnh phải được gửi đến Ủy ban Nobel chậm nhất là ngày 31/1 năm sau. Sau đó, Ủy ban sẽ sàng lọc và nộp danh sách để Viện Hàn lâm phê duyệt.
Tháng 4, Ủy ban chọn khoảng 15-20 cái tên để Viện Hàn lâm xem xét làm ứng cử viên sơ bộ. Tháng 5, họ rút gọn danh sách xuống còn 5 người. Từ tháng 6 đến tháng 8 là thời gian các thành viên của Viện Hàn lâm đọc và đánh giá tác phẩm. Đến tháng 9, họ họp bàn để thảo luận về giá trị đóng góp của từng ứng cử viên.
Tháng 10, Viện Hàn lâm chọn ra người đoạt giải Nobel. Đó là tác giả nhận được hơn một nửa số phiếu bầu từ 18 thành viên của Viện. Viện Hàn lâm Thụy Điển được vua Gustav III thành lập năm 1786, chịu trách nhiệm ra quyết định về Nobel Văn học. Họ không bao giờ cho biết dấu hiệu về nhân vật có khả năng đoạt giải tới khi công bố kết quả. Danh sách những cái tên vào vòng chung khảo chỉ được tiết lộ 50 năm sau mùa giải đó.
Giải từng bị gián đoạn vào các năm 1914, 1918, 1935, 1940, 1941, 1942 và 1943 vì hai cuộc Chiến tranh Thế giới. Theo quy chế, nếu không có công trình nào ấn tượng, số tiền thưởng sẽ được bảo lưu đến năm sau. Huy chương do nhà điêu khắc Thụy Điển - Erik Lindberg - thiết kế, có hình ảnh một chàng trai trẻ ngồi dưới gốc cây nguyệt quế sáng tác, bị mê hoặc bởi bản đàn của một nàng thơ. Bằng chứng nhận là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, do các nhà thư pháp Thụy Điển và Na Uy sáng tạo.
Hà Thu