Ngày về của cha

Cha tôi, người làng An Hải, một làng bên bờ đông Sông Hàn. Ông theo cách mạng, đi kháng chiến, vào bộ đội khi còn rất trẻ.
Ông từng bị giặc Pháp bắt giam và vượt ngục trốn thoát.
Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, mang theo trái tim nặng trĩu nhớ thương: nhớ làng, nhớ sông, nhớ từng con người thân yêu ở quê nhà.
Cha tôi công tác trong ngành giao thông vận tải, bám trụ ở tuyến đường Trường Sơn khốc liệt nhất ở miền tây Quảng Bình.
Cung đường mà bom đạn suốt ngày gào thét và cái chết luôn rình rập. Hành trình ấy với ông là một cuộc thi gan bền chí để góp phần vào việc đại sự của đất nước.
Những lần về thăm nhà, cha đều mang theo câu chuyện về những cung đường mà ông vừa đi qua với những cái tên như: Đèo Đá Đẻo, Bến phà Xuân Sơn, Khe Ó, Khe Ve, Đường 20… và cả những chuyến nhận xe vận tải, hàng hóa từ biên giới Việt - Trung vào tuyến.
Tôi nhớ rất rõ những lần cha về thăm nhà rồi vội vã ra đi, ông không dặn dò con cái những lời quen thuộc như chăm ngoan, học giỏi, nghe lời, mà lần nào ông cũng dặn: "Nghe tiếng máy bay là chạy nhanh xuống hầm nghe chưa, sống mà về quê nghe chưa…".
Lúc nhỏ tôi không hiểu vì sao cha hay nói như vậy, mãi sau này tôi mới nhận ra với ông, được sống để trở về quê hương là ước nguyện lớn nhất trên đời.
Có lần ông dặn: "Cha đi lần này không biết có về được không, sau này hòa bình mấy đứa ráng tìm đường về quê: Về Đà Nẵng tìm tới chợ Hàn hỏi đường về bến đò Hà Thân,…".
Rồi đến năm 1973, cha tôi về thăm nhà, sau một ngày Hiệp định Paris được ký kết, ông mừng lắm. Hôm đó, ông lặng lẽ chuẩn bị một ba lô, mấy bộ quần áo cùng vài đồ dùng cá nhân đơn sơ.
Ông nói với má tôi: "Chỉ cần Đà Nẵng được giải phóng là tôi về liền". Ánh mắt sáng lên, giọng chắc nịch như thể trong lòng ông đã vẽ sẵn hành trình trở về ấy từng bước một.
... Và rồi ngày ấy cũng đến!
Ngày Đà Nẵng được giải phóng, cuối tháng 3 năm 1975, cha tôi mang ba lô lên Đường 15. Ông cứ thế mà đi, vừa đi bộ, vừa vẫy xe bộ đội xin đi nhờ từng chặng.
Một việc không hề dễ dàng, bởi lúc ấy miền Nam vẫn chưa hoàn toàn giải phóng, tình hình rất phức tạp, xe cộ ít ỏi, thông tin rời rạc... nhưng cha tôi với trí nhớ và ý chí của người từng vào sinh ra tử vẫn lần ra được đường về bến đò Hà Thân.
Nhìn dòng sông Hàn lững lờ trôi dưới nắng chiều. Gió sông thổi về mang theo mùi mặn nồng của biển, của bùn đất, của một thời tuổi thơ. Cha tôi lặng người, không ai thấy ông khóc nhưng đôi mắt đỏ hoe, miệng thì thầm: "Về rồi", "Về được rồi".
Đặt chân lên bờ đông, trước mắt ông là cây đa đầu chợ Hà Thân giờ đã cao lớn hơn nhiều, tán vươn rộng che mát cả một góc chợ.
Không chần chừ, ông chạy một mạch theo con đường làng cũ, dẫn từ bến đò về nhà, lòng run lên vì xúc động, chân ông bước nhanh, tim ông đập gấp. Về đến nhà ngoại tôi, không kìm được ông hét lên "Má ơi! Ba ơi! Con về rồi đây!".
Nhưng chỉ có tiếng gió đáp lại, không có ai chạy ra, cũng không có ai gọi tên ông như ông hằng mong đợi. Ông đứng lặng giữa sân như đang nín thở. Một người hàng xóm bước sang chậm rãi nói: "Ông bà mất rồi anh ơi, cách đây mấy tháng…".
Đôi mắt ngấn nước, bàn tay nắm chặt đến run rẩy, ông thì thầm: "Con về rồi nhưng không còn kịp nữa ba má ơi!".
Ông đi khắp xóm tìm gặp người thân, gặp lại các cô, cậu, dì tôi sau bao năm xa cách. Không ai nói nên lời, chỉ có vòng tay ôm chặt, nước mắt lặng lẽ rơi và những cái nhìn sửng sốt không tin là cha tôi còn sống trở về.
Qua bao năm, căn nhà xưa không còn nguyên vẹn, vườn tược um tùm. Rặng tre ngoài bìa ruộng đã mọc ra tận bờ sông.
Ông lặng ngồi trên mô đất giữa vườn nhìn ra bờ sông, lắng nghe tiếng gió, tiếng sóng vỗ, hút một điếu thuốc, rít một hơi thật sâu rồi ngửa mặt nhìn lên bầu trời sao thưa và thở ra chầm chậm.
Sau này ông kể lại: "Chưa bao giờ tao hút điếu thuốc mà thấy nó ngon như vậy!". Một điếu thuốc hòa bình, hút giữa quê nhà sau hơn 20 năm đạn bom chia lìa.
Có lẽ đó là giây phút mà ông cảm nhận trọn vẹn nhất hai chữ "HÒA BÌNH", không phải trong những văn kiện, bản tin, mà là trong hơi thở quê nhà, trong tiếng lá tre xào xạc, trong tiếng sông Hàn vỗ nhè nhẹ, trong cái mùi rất riêng của đất quê.
Tin Sài Gòn được giải phóng ít ngày sau đó, khiến niềm vui như vỡ òa. Cha tôi mừng như đứa trẻ "Thống nhất thật rồi! Hòa bình thật rồi!", ông cứ nhắc đi nhắc lại suốt mấy ngày liền.
Ít ngày sau, ông ra Bắc sắp xếp công việc, vội vã đưa má tôi và các con về quê. Chuyến trở về của cả gia đình như một giấc mơ có thật.
Sau này, mỗi lần sum họp, ông thường kể lại câu chuyện ngày về trong niềm hạnh phúc không bao giờ cạn.
Với ông, đấy là ngày trái tim ông được lành lại, ngày mà mọi nhớ nhung, chia xa, lo sợ đều tan biến trong hương đất quê hương. Ông hay nói với con cháu: "Ông là người may mắn vì bom đạn đã tránh ông, ông thương lắm những đồng đội đã không thể trở về".
Cha tôi mất vào một ngày mùa xuân. Hôm tiễn ông đi ngang qua khu vườn cũ nơi ông từng ngồi hút điếu thuốc giữa đêm hòa bình đầu tiên, gió vẫn thổi, tiếng sóng từ sông Hàn vẫn vỗ nhè nhẹ vào bờ. Tất cả đã trở thành kỷ niệm.
Nhưng chúng tôi biết, điều ông để lại không chỉ là kỷ niệm, mà còn là bài học sống động về tình yêu quê hương, về niềm tin và khát vọng hòa bình.
Những câu chuyện thời chiến của cha tôi đã trở thành một phần ký ức thiêng liêng, được chúng tôi kể lại cho con cháu như một lời nhắc nhở về giá trị của hòa bình để thế hệ mai sau biết trân trọng và gìn giữ.