Lợi nhuận khổng lồ từ mô hình ít ai ngờ tới

Theo ước tính, việc cải thiện tái sử dụng nguyên liệu thô thông qua cộng sinh công nghiệp với quy mô lớn hơn, sẽ giúp châu Âu thu được khoảng 49.600 tỷ đồng mỗi năm. Tuy nhiên, tại Việt Nam rất ít mô hình trên.
Cách thế giới làm khu công nghiệp 60 năm trước
Kalundborg (Đan Mạch) được coi là một trong những “khu công nghiệp sinh thái” lâu đời nhất thế giới và là nơi khai sinh ra mô hình “cộng sinh công nghiệp”.
Dự án khu công nghiệp (KCN) trên được bắt đầu từ năm 1960, bao gồm một mạng lưới các công ty trao đổi sản phẩm phụ, năng lượng và tài nguyên. Đơn cử, một công ty dược phẩm sử dụng lượng nhiệt dư thừa từ một nhà máy điện lân cận để phục vụ hệ thống sưởi, còn chất thải công nghiệp được tái chế làm nguyên liệu thô cho các quy trình khác. Cách tiếp cận này vừa giúp giảm chất thải, vừa cắt giảm chi phí vận hành cho doanh nghiệp tại Kalundborg.
Còn KCN sinh thái Händelö (HEIP) tại Norrköping (Thụy Điển) là một ví dụ điển hình về cộng sinh công nghiệp đô thị, nơi các ngành công nghiệp và các nguồn tài nguyên dư thừa của thành phố được kết hợp tạo thành hệ thống cộng sinh.
HEIP hoạt động dựa trên việc phối hợp giữa công ty năng lượng và ngành công nghiệp chế biến để tận dụng phụ phẩm, sản phẩm dư thừa làm nguyên liệu thô. Đơn cử, nhà máy Lantmännen Biorefineries tại HEIP sản xuất ethanol với lượng phát thải carbon ở mức tối thiểu và có thể chuyển đổi khí CO2 thành các sản phẩm bền vững.
Ngoài Kalundborg và HEIP, còn nhiều dự án khác trên thế giới về mô hình KCN sinh thái như: KCN sinh thái Londonderry (Mỹ); Khu Riverside, Vermont (Mỹ); Khu sinh thái công nghiệp Taiga Nova (Canada); Công viên CleanTech (Singapore)...
Nêu ra dẫn chứng về cộng sinh công nghiệp trên thế giới, ông John Campbell - Giám đốc Bộ phận Dịch vụ Công nghiệp, Savills TPHCM, cho rằng, đây là xu hướng của công nghiệp tương lai và là tham khảo hữu ích cho Việt Nam trong lộ trình hướng tới Net Zero năm 2050.
“Với hàng trăm khu công nghiệp, ngành công nghiệp đa dạng và phát triển cùng với chuỗi giá trị ngày càng tinh vi, Việt Nam sở hữu tiềm năng lớn trong triển khai mô hình cộng sinh công nghiệp”, ông nói với VietNamNet.
Theo ông, có 4 lợi ích lớn từ việc áp dụng cộng sinh công nghiệp.
Thứ nhất, hiệu quả sử dụng tài nguyên. Bằng cách chia sẻ các nguồn tài nguyên như năng lượng và nguyên liệu, các KCN giảm thiểu chất thải và giảm nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu thô, phù hợp với các mục tiêu Net Zero.
Thứ hai, tiết kiệm chi phí. Các doanh nghiệp giảm chi phí vận hành thông qua việc giảm phí xử lý chất thải và giảm chi phí nguyên liệu nhờ sử dụng các sản phẩm phụ từ các ngành công nghiệp khác trong KCN.
Thứ ba, tác động môi trường. Mô hình cộng sinh giúp giảm thiểu tác động môi trường của hoạt động công nghiệp bằng cách giảm thiểu chất thải và khí thải.
Thứ tư, thu hút khách thuê tốt hơn. Mô hình này giúp KCN thu hút tập đoàn đa quốc gia, thay vì để họ chọn đối thủ cạnh tranh.
Với Hiệp định EVFTA, ngày càng nhiều nhà sản xuất châu Âu đầu tư vào Việt Nam, những doanh nghiệp này đặt trọng tâm vào tính bền vững. Do đó, họ sẽ ưu tiên các KCN chú trọng kinh tế tuần hoàn.
Còn trong một báo cáo của Ủy ban châu Âu (EC) về thúc đẩy công nghiệp cộng sinh, ủy ban này chỉ ra rằng, việc cải thiện tái sử dụng nguyên liệu thô thông qua cộng sinh công nghiệp với quy mô lớn hơn có thể tiết kiệm 1,4 tỷ euro và tạo ra doanh thu 1,6 tỷ euro (khoảng 49.600 tỷ đồng) trên toàn EU mỗi năm.
Con số khiêm tốn ở Việt Nam
Tại Việt Nam, bà Nguyễn Thị Xuân Thuý - Chuyên gia tư vấn chính sách công nghiệp, Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) - cho biết, trước đây, chính UNIDO đã “nhập khẩu” ý tưởng khu công nghiệp sinh thái từ châu Âu về Việt Nam. Tới nay, khái niệm “khu công nghiệp sinh thái” đã được đưa vào văn bản quy phạm pháp luật để doanh nghiệp xác định tiêu chí cần hướng đến trong hoạt động.
Hiện nay, một số KCN trong nước đang triển khai công nghiệp cộng sinh. KCN Nam Cầu Kiền (Hải Phòng) với 3 chuỗi cộng sinh công nghiệp (thép; nhựa; phụ trợ điện - điện tử). Đơn cử, xỉ thép, tạp chất tách từ phế liệu kim loại của ngành sẽ được phân loại để thu hồi kim loại. Sắt tồn dư đưa trở lại nhà máy thép để luyện phôi. Phần xỉ thép không chứa kim loại được nghiền, sàng tái chế đá nhân tạo ecoslag làm phụ gia xi măng.
Tại KCN Deep C (Hải Phòng), bột mài kính sau quá trình sản xuất được tận dụng để san lấp đường, góp phần giảm thiểu đáng kể lượng rác thải kính.
Ở KCN Trà Nóc (Cần Thơ), doanh nghiệp thủy sản và sản xuất bao bì đã tận dụng phụ phẩm làm thức ăn chăn nuôi, nước thải sau xử lý được tái sử dụng trong sản xuất.
Dẫu vậy, mô hình cộng sinh công nghiệp vẫn chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong số các KCN trên các nước. Theo thống kê, tính đến tháng 5/2024, trong số 299 KCN đã đi vào hoạt động, chỉ có khoảng 1-2% KCN đang thực hiện chuyển đổi, trở thành KCN sinh thái. Tuy nhiên, chưa có dữ liệu cụ thể nào phân tích về các mối liên hệ cộng sinh công nghiệp nội khu.
Giám đốc Bộ phận Dịch vụ Công nghiệp, Savills TPHCM, đánh giá, so với các nền kinh tế trưởng thành hơn, mô hình cộng sinh công nghiệp tại Việt Nam vẫn còn ở giai đoạn khá sơ khởi.
“Việc phát triển các dự án cộng sinh công nghiệp đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa các bên liên quan nhằm tận dụng tối đa sản phẩm phụ và nguồn tài nguyên. Tại Việt Nam, trọng tâm lại đổ dồn vào việc phát triển các khu công nghiệp mới áp dụng công nghệ xanh thay vì tối ưu hóa mối quan hệ cộng sinh giữa các doanh nghiệp đang hoạt động trong khu công nghiệp hiện hữu”, ông John Campbell chỉ ra điểm bất cập.
Ngoài ra, cơ chế chia sẻ thông tin về sản phẩm phụ và nguồn tài nguyên có thể trao đổi giữa các doanh nghiệp còn thiếu. Việt Nam vẫn thiếu chính sách hỗ trợ tài chính và ưu đãi thuế để khuyến khích doanh nghiệp áp dụng mô hình cộng sinh công nghiệp.
Về giải pháp thúc đẩy cộng sinh công nghiệp, đại diện Savills cho rằng, Chính phủ cần triển khai chính sách khuyến khích sự hợp tác giữa các ngành công nghiệp, chẳng hạn, ưu đãi thuế hoặc trợ cấp cho doanh nghiệp tham gia vào các dự án cộng sinh công nghiệp.
Cùng với đó, cơ quan quản lý Nhà nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng giúp thúc đẩy trao đổi tài nguyên, ví dụ như các hệ thống đường ống cho trao đổi năng lượng hoặc chất thải. Các quy trình tái sử dụng và tái chế chất thải, nhất là khi chất thải được đưa ra khỏi doanh nghiệp, cùng với thị trường cho vật liệu thứ cấp và sản phẩm phụ cần được coi trọng.
Việc thúc đẩy nhận thức và cung cấp khóa đào tạo cho doanh nghiệp về lợi ích, cách thức triển khai cộng sinh công nghiệp cũng rất cần thiết.
Cuối cùng, Nhà nước cần hỗ trợ quá trình nghiên cứu và phát triển nhằm tìm kiếm các mối quan hệ cộng sinh mới và các giải pháp sáng tạo trong quản lý tài nguyên.