Lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước có thể nhận lương tối đa 320 triệu đồng/tháng

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 248 quy định chế độ tiền lương, thù lao, tiền thưởng của người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, người đại diện phần vốn nhà nước và kiểm soát viên trong doanh nghiệp nhà nước.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 15.9. Theo đó, mức tiền lương, thù lao tối đa được quy định theo chức danh chủ tịch, thành viên hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, trưởng ban kiểm soát, kiểm soát viên tính bình quân theo tháng và gắn với các chỉ tiêu sản xuất, kinh doanh theo năm.
Theo đó, mức lương cơ bản được áp dụng từ 30 - 80 triệu đồng/tháng với các chức danh và quy mô các doanh nghiệp.
Đáng chú ý, Nghị định 248 quy định mức tiền lương tối đa của thành viên hội đồng, kiểm soát viên chuyên trách được xác định trên cơ sở mức lương cơ bản nêu trên và lợi nhuận thực hiện của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có lợi nhuận và lợi nhuận thực hiện không thấp hơn kế hoạch thì mức tiền lương tối đa bằng 2 lần mức lương cơ bản, nếu lợi nhuận thực hiện vượt kế hoạch thì thực hiện theo nguyên tắc 1% lợi nhuận vượt so với kế hoạch, được tính thêm 2% mức tiền lương nhưng không quá 20% mức tiền lương tính trên cơ sở 2 lần mức lương cơ bản.
Trường hợp lợi nhuận thực hiện thấp hơn kế hoạch thì mức tiền lương tối đa được tính bằng 80% nhân với 2 lần mức lương cơ bản và nhân với tỷ lệ lợi nhuận thực hiện so với lợi nhuận kế hoạch, nhưng không thấp hơn 80% mức lương cơ bản.
Doanh nghiệp không có lợi nhuận thì mức tiền lương tối đa bằng 70% mức lương cơ bản. Doanh nghiệp lỗ hoặc giảm lỗ thì mức tiền lương tối đa được xác định bằng 50% mức lương cơ bản.
Đặc biệt, doanh nghiệp có lợi nhuận cao hơn từ 2 - 4 lần trở lên so với chỉ tiêu lợi nhuận tối thiểu theo quy định, lãnh đạo có thể nhận mức lương tối đa bằng 2,5 đến 4 lần mức lương cơ bản. Như vậy, với chức danh chủ tịch HĐQT hoặc chủ tịch HĐTV của doanh nghiệp nhóm 1, có thể nhận mức lương tối đa cao nhất khoảng 320 triệu đồng/tháng.
Tiền thưởng của thành viên hội đồng, kiểm soát viên được xác định trong quỹ tiền thưởng trích từ quỹ khen thưởng, phúc lợi theo quy định tại luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp, quy định của Chính phủ về quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp và quy chế thưởng của doanh nghiệp.
Tiền thưởng cụ thể hằng năm tối đa không vượt quá số tháng tiền lương của doanh nghiệp được trích để lập quỹ khen thưởng, phúc lợi nhân với tỷ lệ phân bổ giữa quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi theo quy định hoặc quy chế của doanh nghiệp và nhân với mức tiền lương bình quân thực hiện theo tháng.