Đối với chủ trương về xây dựng Đảng văn minh, dự thảo báo cáo chính trị Đại hội 14 xác định: "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn, tự đổi mới để Đảng ta thật sự là đạo đức, là văn minh".
Ban chấp hành Trung ương mới đây công bố toàn văn dự thảo các văn kiện trình Đại hội 14 để lấy ý kiến nhân dân.
Tổ Biên tập Văn kiện Đại hội 14 cũng vừa có báo cáo một số vấn đề mới, quan trọng trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội 14 của Đảng. Trong đó, một trong những vấn đề mới quan trọng của dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội 14 của Đảng là nhấn mạnh đến chủ trương về xây dựng Đảng văn minh.
Theo đó, dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội 14 xác định: "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn, tự đổi mới để Đảng ta thật sự là đạo đức, là văn minh". Đây là nội dung mới, lần đầu tiên chủ trương xây dựng Đảng văn minh được xác định là một nhiệm vụ chiến lược, có tính hệ thống và cụ thể hóa trong Văn kiện Đại hội Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng ta là đạo đức, là văn minh". Theo Người, Đảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm và danh dự của dân tộc mới xứng đáng là người lãnh đạo. Xây dựng Đảng về văn minh là bước tiếp tục hiện thực hóa sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, làm cho Đảng ta thực sự "là đạo đức, là văn minh".
Dự thảo cho rằng xây dựng Đảng văn minh là sự kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tạo ra một mối liên kết bền chặt giữa Đảng với nhân dân và dân tộc.
Xây dựng Đảng văn minh góp phần nâng cao uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng, giúp củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng. Đảng phải đổi mới tư duy, phương thức lãnh đạo để phù hợp với những biến đổi nhanh chóng của thời đại. Đảng văn minh sẽ đưa đất nước phát triển tiến kịp cùng thế giới.
Từ lý luận về xây dựng Đảng, hai yếu tố "đạo đức" và "văn minh" của Đảng không tách rời mà gắn bó hữu cơ, bổ sung cho nhau.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy rằng một Đảng Cộng sản chỉ có thể lãnh đạo cách mạng thành công khi đảng đó là một đảng văn minh, trong sạch, vững mạnh, minh bạch, dân chủ, tiên phong; có tư duy khoa học, hiện đại; có phương thức lãnh đạo dân chủ, hiệu quả; có khả năng tự đổi mới, thích ứng với những thay đổi của thời đại, được nhân dân tin yêu, ủng hộ.
Đồng thời khắc phục các bất cập hiện nay trong công tác xây dựng Đảng, vì bên cạnh những thành tựu, trong Đảng vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém, không phù hợp với một chính đảng văn minh.
Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân
Một nội dung mới khác trong dự thảo báo cáo chính trị lần này là về "tăng cường củng cố và phát huy hiệu quả sức mạnh của nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc".
Trên cơ sở tổng kết 40 năm đổi mới, dự thảo Báo cáo chính trị đã rút ra bài học kinh nghiệm: "Tăng cường củng cố và phát huy hiệu quả sức mạnh của nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc". Đây là bài học kinh nghiệm quý báu mang tầm lý luận, có giá trị định hướng thực tiễn cho sự nghiệp cách mạng của đất nước trong kỷ nguyên phát triển mới.
Năm cơ sở để tăng cường củng cố và phát huy hiệu quả sức mạnh của nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc gồm:
Thứ nhất, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Sức mạnh của nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Củng cố và phát huy sức mạnh này là chìa khóa để Việt Nam vững bước trên con đường xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, coi trọng nhân dân của dân tộc ta là sự kế thừa tư tưởng "dân là gốc". Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân là chủ thể của cách mạng, là sức mạnh to lớn, có khả năng sáng tạo vô tận: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân"; "có lực lượng dân chúng thì việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra".
Thứ ba, kế thừa và phát huy các bài học kinh nghiệm trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng và kinh nghiệm của các cuộc cách mạng trên thế giới. Đảng ta đã tập hợp, quy tụ, phát huy được sức mạnh to lớn của nhân dân cả về lực lượng và của cải, vật chất và tinh thần, để làm nên thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Thứ tư, thành tựu vĩ đại của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Đảng ta đã phát huy sức mạnh của nhân dân, lấy mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" làm mục tiêu hành động; bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội..., với phương châm xuyên suốt: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng".
Thứ năm, xuất phát từ yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nền tảng vững chắc để xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân gắn với xây dựng thế trận lòng dân vững chắc. Việc phát huy sức mạnh nhân dân giúp huy động mọi nguồn lực to lớn, cả về vật chất lẫn tinh thần của nhân dân. Sức sáng tạo, tinh thần tự lực, tự cường của mỗi người dân là yếu tố then chốt thúc đẩy công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.