Làm báo trong rừng

Mới nghe "làm báo trong rừng", chắc có người nghĩ đây là chuyện làm báo theo kiểu "rừng rú". Không phải vậy. Đây là câu chuyện giữa rừng già đã tồn tại cả một ban biên tập với đầy đủ phóng viên, biên tập viên của một đài phát thanh đứng thứ hai trong cả nước hồi chiến tranh.
Đài phát thanh Giải Phóng được thành lập ngày 1.2.1962 tại khu rừng Mã Đà thuộc chiến khu Đ và hoạt động bền bỉ cho tới ngày đất nước thống nhất. Lớp biên tập viên, phóng viên chúng tôi trực tiếp làm báo trong rừng từ tháng 5.1971, sau ngày Đài phát thanh Giải Phóng thành lập 9 năm. Có thể coi chúng tôi là lớp phóng viên "em út", lớp cuối cùng của đài.
Nói về công việc hằng ngày của đài trong rừng thì rất bài bản. Giờ nào việc ấy rất nghiêm túc. Buổi sáng sớm, anh em phóng viên chúng tôi đã dậy, ăn sáng qua loa, rồi uống trà. Trà ngày đó là trà Củ Măng, quản lý mua ở cửa khẩu về chia lại cho anh em nghiện trà. Thực ra hồi ấy đám phóng viên, biên tập viên ai cũng nghiện trà.
Những bàn trà được "gầy lên" mỗi sáng trong rừng là một nét độc đáo của chiến khu ngày ấy. Anh em phóng viên uống xong tuần trà thì giám đốc đài kêu lên họp. Mỗi sáng đều có họp giao ban nghiêm túc như vậy. Giám đốc hồi ấy là ông Hai Xuyên, nhưng ông Sáu Hà mới là người chịu trách nhiệm chuyên môn. Ông Sáu Hà rất giỏi chuyên môn, lại có thâm niên trong nghề, nên góp ý của ông cho bài vở đám phóng viên chúng tôi rất được anh em tiếp thu.
Phần quan trọng nhất trong họp giao ban mỗi sáng là phân công cho phóng viên chắc tay nghề viết bài bình luận thời sự. Tôi cũng được chọn trong số những người viết bình luận thời sự đó. Tôi chuyên viết bình luận mảng binh vận, và rất được các thủ trưởng tiểu ban tuyên truyền binh vận tín nhiệm.
Cuộc họp buổi sáng kết thúc, ai về lều người ấy, bắt đầu làm việc. Ai viết nhanh thì buổi trưa trước giờ ăn cơm đã có bài nộp cho ông Sáu Hà duyệt. Bài được duyệt sẽ đánh tê-lê-tip ra Hà Nội để lên sóng. Tôi và nhà văn Lê Điệp (ở Ban Đô thị miền Nam) thường xong việc sớm, chỉ chờ ăn cơm xong là vác cần câu ra con suối phía sau đài.
Tôi với Lê Điệp là hai tay câu hay gặp may. Con suối tương đối sâu nên cá khá nhiều, chủ yếu là cá đỏ đuôi. Chúng tôi kiên trì ngồi buông cần, không phải câu cá để thư giãn, hay để nghĩ chuyện lớn, mà chăm chăm kiếm cá cho bữa cơm chiều. Dạo đó thức ăn nhà bếp quá hẻo, tôi với Lê Điệp mặt thằng nào cũng xanh lét do sốt rét và thiếu chất, nên câu cá cải thiện là "việc cần làm ngay".
Thường ngồi suốt buổi trưa như thế, mỗi thằng cũng câu được dăm con cá đỏ đuôi, loại cá bé tẹo bằng hai, ba ngón tay, nhưng như thế là tươm lắm rồi, có thức ăn cho bữa chiều rồi. Thậm chí, hơn cả thức ăn, đó có thể là mồi nhậu, nếu có tiền mua rượu "đồng bào phum sóc". Muốn có tiền, tôi với Lê Điệp phải lên phòng y tế của đài xin thuốc sốt rét, và "thật thà khai báo" là bị suy kiệt trầm trọng.
Chị y sĩ khá dễ tính, cho thuốc lại còn kèm theo đơn xét bồi dưỡng. Tôi với Lê Điệp mỗi thằng được 100 riel (tiền Campuchia). Quá tốt! 200 riel này có thể mua được hơn 2 lít "rượu đồng bào". Chúng tôi tiêu từ từ, mỗi lần ra phum sóc lại mua nửa lít. Cứ thế, mỗi bữa chiều chúng tôi kêu thêm vài thằng bạn nữa, mồi nhậu là cá câu được, rượu "đồng bào" nửa lít, đủ lai rai rồi. Nhậu xong tối xuống hầm ngủ, tránh bom B52.
Dạo đó bom B52, bom B57 thả thường xuyên xuống những khu rừng chiến khu. Cũng thả hú họa thế thôi, chẳng trúng trật gì nhưng chúng tôi vẫn phải xuống ngủ dưới hầm cho an toàn. Chính ở dưới một căn hầm tránh bom như thế, tôi đã viết được bài thơ dài Thử nói về hạnh phúc. Năm 2025 này, bài thơ ấy đã có tuổi thọ 53 năm.
Căn hầm tôi viết bài thơ đó là hầm của ông Điển, một "giáo viên cắm… rừng". Căn hầm thật chắc chắn, chủ nhân của nó quê Thanh Hóa, nên rất chỉn chu.
Làm báo ở Đài phát thanh Giải Phóng, chúng tôi có một nhóm anh em thân thiết, gồm Lê Điệp, Vũ Ân Thy và tôi từ Hà Nội vô, Kha Lương Ngãi và chị Tuyết Nga từ Sài Gòn lên, mỗi người ở một tiểu ban, nhưng trong rừng thì nhà cửa gần nhau, cùng là phóng viên, nên rất thân thiết. Nói thêm về chị Tuyết Nga. Chị là em ruột chị Tố Nga, người những năm gần đây đã nổi tiếng thế giới về một vụ kiện lừng lẫy, kiện những công ty và Chính phủ Mỹ sản xuất và rải chất độc da cam trên toàn miền Nam ngày chiến tranh, gây bao thảm họa cho cả hai phía tham gia chiến tranh và dân thường.
Chị Tuyết Nga là phát thanh viên đầu tiên của Đài phát thanh Giải Phóng năm 1962, sau đó chị về hoạt động bí mật trong nội thành Sài Gòn, rồi bị lộ phải ra lại chiến khu, về làm phóng viên Tiểu ban Phụ nữ của đài. Chúng tôi cùng làm việc với nhau hơn một năm, tới "Mùa hè đỏ lửa" năm 1972 thì tạm biệt Đài phát thanh Giải Phóng, đi làm phóng viên trực tiếp ở các chiến trường.
Dù chỉ "làm báo trong rừng" hơn một năm, nhưng với tôi là những kỷ niệm rất khó quên. Tôi bắt đầu thực sự trưởng thành từ đó. Sau khi đi chiến trường Mỹ Tho về lại chiến khu, tôi đã trở thành một nhà thơ và một nhà báo không đến nỗi nào. Thế mới biết, với nhà báo, hoàn cảnh chỉ là một yếu tố, dù mình ở hoàn cảnh khó khăn cỡ nào, miễn tự vượt qua được thì những bài báo chất lượng vẫn có thể ra đời.
Chiến tranh đã rèn luyện lớp nhà báo như tôi, và thật may mắn, tới bây giờ, sau 55 năm, tôi vẫn còn viết những bài báo đăng được.