Theo Cục Môi trường, kinh phí đầu tư của Nhà nước cho quan trắc định kỳ và lắp đặt, duy trì các trạm quan trắc không khí tự động liên tục chưa đáp ứng tốc độ phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu quản lý thực tế. Việc phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các Bộ, ngành và các địa phương cũng chưa chặt chẽ, thường xuyên, kịp thời khi xảy ra những điểm nóng ô nhiễm không khí.
Chuyên gia cho rằng với quy mô dân số, mức độ ô nhiễm, nguồn phát thải tại Hà Nội, số lượng và phân bố của các trạm quan trắc hiện chưa đủ phục vụ công tác giám sát, quản lý chất lượng không khí.
"Việc lắp đặt trạm chỉ là bước đầu, làm sao đảm bảo các trạm luôn hoạt động, có số liệu đầy đủ, chính xác là điều kiện quan trọng để đánh giá chính xác chất lượng không khí ở đô thị", PGS.TS Nguyễn Thị Nhật Thanh đánh giá.
Khoảng trống thời gian
Quá trình theo dõi số liệu từ mạng lưới quan trắc của thành phố, bà Thanh nhận thấy, dữ liệu thường bị "đứt quãng" do các trạm đo hỏng hoặc phải bảo trì.
Ví dụ, tháng 10/2024, Hà Nội trải qua đợt ô nhiễm không khí nghiêm trọng, kéo dài tới 17 ngày, nồng độ bụi mịn PM2.5 trung bình ngày vượt 50 µg/m³, ngưỡng cho phép theo quy chuẩn Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều trạm không có hoặc không công khai số liệu, dẫn đến thiếu thông tin cho cộng đồng và cơ quan quản lý.
Tương tự, trong đợt ô nhiễm không khí đang diễn ra, cổng quan trắc moitruongthudo.vn của TP Hà Nội thời điểm sáng 30/11 không thể truy cập vì "tên miền hết hạn", khiến người dân không xem được số liệu. Hiện, trang này đã hoạt động lại bình thường.
Đây không phải lần đầu mạng lưới quan trắc chất lượng không khí của thành phố xuất hiện những "khoảng trống" về thời gian.
Theo khảo sát của VnExpress, trong 61 trạm quan trắc chất lượng không khí tại Hà Nội năm 2024, chỉ 18 trạm công khai dữ liệu lịch sử. Tuy nhiên, các điểm đo đều mất dữ liệu từ 12-128 ngày, trung bình mỗi trạm mất dữ liệu 50 ngày. Việc thiếu dữ liệu có xu hướng diễn ra thành đợt, kéo dài khoảng một tháng.
Để đánh giá sự thay đổi tình trạng ô nhiễm không khí, dữ liệu cần được thu thập và lưu trữ qua nhiều năm để so sánh. Tuy nhiên, chỉ 5 trạm có chuỗi dữ liệu dài trên ba năm là: Nguyễn Văn Cừ, Đại sứ quán Mỹ, Linh Đàm, Nguyễn Duy Trinh, và Trường Quốc tế LHQ. Song, dữ liệu từ các trạm này cũng không liên tục do bảo trì. Từ 2021, 5 trạm này thiếu dữ liệu từ 11 đến 50 ngày mỗi năm.
Theo Quy hoạch Quan trắc môi trường quốc gia tháng 3/2024, đến năm 2030 cả nước sẽ xây dựng thêm 98 trạm quan trắc chất lượng không khí tự động, liên tục. Trong đó, Hà Nội bổ sung thêm 6 điểm mới tại các khu dân cư và khu công nghiệp ở Long Biên, Tây Hồ, Gia Lâm, Đông Anh, Mê Linh, Quốc Oai - Thạch Thất và Bắc Từ Liêm.
"Đây là một trong những giải pháp then chốt để cải thiện chất lượng phân tích và dự báo ô nhiễm không khí, tăng khả năng phản ứng trước các đợt ô nhiễm nghiêm trọng", TS Hoàng Dương Tùng nói.
Ông cho biết nhiều địa phương đã đầu tư trạm quan trắc, nhưng sau 2-3 năm vận hành thì dữ liệu thường bị gián đoạn hoặc thiếu độ tin cậy. Nguyên nhân là thiếu cơ chế tài chính phù hợp để bảo trì, sửa chữa kịp thời với các trạm tự động liên tục. Nhiều trạm khi gặp sự cố phải chờ thời gian dài để chờ phê duyệt kinh phí khắc phục, thay thế.
Cục Môi trường cho biết thời gian tới sẽ ưu tiên bố trí nguồn lực lắp đặt bổ sung các trạm quan trắc môi trường, tăng cường tần suất quan trắc. Đồng thời, Cục sẽ đảm bảo số liệu truyền, kết nối không bị gián đoạn. Về lâu dài, Cục sẽ thiết lập mạng lưới trạm quan trắc không khí tự động, liên tục đủ lớn để đảm bảo việc thu nhận, truyền dẫn số liệu có thể cảnh báo, dự báo được xu thế, diễn biến chất lượng môi trường không khí.
TS Hoàng Dương Tùng cho rằng việc xây dựng mạng lưới quan trắc đặc biệt cần thiết trong bối cảnh Hà Nội nghiên cứu triển khai vùng phát thải thấp. Thành phố cần bản đồ chi tiết về hiện trạng ô nhiễm và nguồn phát thải theo từng xã phường, nhất là khi các nguồn ô nhiễm mới ngày càng xuất hiện, trong đó có bụi xuyên biên giới.
Tương lai gần, các chuyên gia chung quan điểm một trong những giải pháp tiềm năng nhằm thu hẹp khoảng trống dữ liệu không khí là ứng dụng thiết bị cảm biến chi phí thấp - công nghệ đã được triển khai rộng rãi tại Thụy Sĩ, Anh, Đài Loan.
PGS.TS Nguyễn Thị Nhật Thanh gợi ý thêm các phương pháp khác để khắc phục "khoảng trống" dữ liệu do thiếu trạm quan trắc như quan trắc vệ tinh, mô hình hoá dựa trên thuật toán mô phỏng, thống kê học máy. Mô hình sẽ kết hợp tất cả các số liệu từ trạm chuẩn, trạm cảm biến, vệ tinh và các yếu tố địa hình, khí hậu, phát thải... để đưa ra bức tranh tổng quát về chất lượng không khí của khu vực nghiên cứu. Đây cũng là cách thế giới đang áp dụng để đánh giá, dự báo hiện trạng ô nhiễm không khí hay tính toán gánh nặng bệnh tật.
Bên cạnh đó, bà nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan nhà nước, đơn vị nghiên cứu độc lập, cá nhân... để tạo hệ thống dữ liệu đồng bộ, minh bạch và có độ tin cậy cao.
Tuy nhiên, về lâu dài, chuyên gia cho rằng nên tập trung đầu tư các trạm cố định, vì đây là nguồn số liệu "chuẩn" để ra quyết định chính sách. Việc đầu tư trạm quan trắc không nên tăng theo tuyến tính, ví dụ 1 triệu dân - 3 trạm, 2 triệu dân - 6 trạm, mà phải tính đến các yếu tố khác như nguồn phát thải và mức độ ô nhiễm của từng khu vực. Vị trí đặt trạm có thể phân thành 4 loại: trạm đô thị, trạm giao thông, trạm công nghiệp, và trạm vùng nông thôn. Ngoài ra, trạm nền khu vực cũng là loại phổ biến.
"Việc xây dựng và duy trì mạng lưới quan trắc rộng, phủ khắp, hoạt động ổn định đòi hỏi nhiều nguồn lực con người và chi phí cao. Nhưng đây là sự đầu tư cần thiết để giành lại không khí sạch cho Hà Nội", PGS.TS Nhật Thanh nói.
Bài 1: Người Hà Nội 'hút' thụ động bao nhiêu điếu thuốc mỗi ngày
Bài 2: Tại sao Hà Nội 'mắc kẹt' trong vòng xoáy ô nhiễm không khí
Bài 4: 20 năm giảm ô nhiễm không khí của Bắc Kinh
Phùng Tiên - Quang Tuệ - Gia Chính


