Kết quả áp dụng nhãn sinh thái sau 20 năm vẫn khiêm tốn

(Dân trí) - Phó viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường Nguyễn Trung Thắng đánh giá kết quả áp dụng nhãn sinh thái sau hơn 20 năm vẫn khiêm tốn.
Sáng 27/8, báo Tiền Phong phối hợp với Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức tọa đàm “Thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững thông qua nhãn sinh thái”.
Tổng Biên tập báo Tiền Phong Phùng Công Sưởng khẳng định biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đang gây ra những hệ lụy ngày càng nặng nề. Việt Nam liên tiếp hứng chịu siêu bão Yagi khiến 345 người chết, mất tích, thiệt hại 84.000 tỷ đồng và mới đây bão số 5 (Kajiki) gây thiệt hại nặng ở nhiều tỉnh.
Trong bối cảnh đó, theo ông Sưởng, sản xuất và tiêu dùng bền vững trở thành yêu cầu bắt buộc. Doanh nghiệp phải đổi mới sản xuất, giảm phát thải, tiết kiệm tài nguyên. Người tiêu dùng cần ưu tiên sản phẩm xanh, thân thiện môi trường. Đây cũng là định hướng lớn mà Đảng và Nhà nước đã khẳng định nhằm xây dựng nền kinh tế xanh, tuần hoàn.
Nhãn sinh thái chính là “tấm hộ chiếu xanh” giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, tiếp cận người tiêu dùng có trách nhiệm và mang lại cơ sở lựa chọn an toàn, chất lượng cho người tiêu dùng.
PGS.TS Nguyễn Thế Chinh, nghiên cứu viên cao cấp của Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng câu chuyện về nhãn sinh thái không phải mới, bởi ngay cả trước khi Luật Bảo vệ môi trường và chính sách thuế, phí môi trường ra đời, vấn đề này đã được đề cập. Tuy nhiên việc triển khai nhãn sinh thái hiện vẫn còn nhiều khía cạnh cần bàn.
Ông Chinh ví dụ, một sản phẩm son làm từ hoa hồng được dán nhãn sinh thái của châu Âu có giá thành cao gấp nhiều lần so với sản phẩm không có nhãn. Để đạt được điều này, doanh nghiệp phải đầu tư toàn diện, từ nguồn nguyên liệu, tiêu chí sản xuất, công nghệ, quy trình đến nâng cao nhận thức.
Hay sản phẩm màn hình máy tính của Nhật Bản, ngoài chứng nhận ISO 9.000 đảm bảo chất lượng sản phẩm, còn có ISO 14.000 gắn với nhãn sinh thái - vừa đảm bảo chất lượng, vừa an toàn cho người dùng. Nhưng để nâng từ ISO 9.000 lên ISO 14.000, ông Chinh nói doanh nghiệp phải bỏ ra chi phí, công nghệ rất lớn.
Vị chuyên gia nhận định chính sách của Việt Nam thường có độ trễ. Sau khi Luật Bảo vệ Môi trường ban hành cùng với các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính trong định hướng chuyển đổi xanh, vẫn còn nhiều điểm phải điều chỉnh.
Điều đó cho thấy dù chính sách về môi trường đã có bước tiến, nhưng khi áp dụng vào thực tiễn vẫn gặp nhiều điểm nghẽn cần tiếp tục nghiên cứu, tháo gỡ.
“Mối quan hệ giữa các chính sách cần được tăng cường để hình thành cơ chế rõ ràng, giúp doanh nghiệp hiểu, nắm vững và thực sự có khả năng áp dụng nhãn sinh thái”, ông Chinh nêu quan điểm.
Chung quan điểm, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường Nguyễn Trung Thắng đánh giá kết quả áp dụng nhãn sinh thái sau 20 năm vẫn khiêm tốn.
Đến năm 2017, Việt Nam có 17 tiêu chí nhãn xanh, trong đó 7 tiêu chí áp dụng cho 112 sản phẩm; giai đoạn 2024-2025 chỉ thêm 13 sản phẩm được chứng nhận. Người tiêu dùng trong nước vẫn quan tâm nhiều hơn đến an toàn thực phẩm, trong khi rào cản công nghệ, chi phí và thủ tục hành chính tiếp tục là trở ngại lớn.
Từ góc độ quản lý, ông Lê Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, khẳng định nhãn xanh, nhãn sinh thái là công cụ chính sách môi trường quan trọng, được nhiều quốc gia áp dụng thành công như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan hay các nước châu Âu. Công cụ này giúp doanh nghiệp chuyển đổi từ sản phẩm gây ô nhiễm sang sản phẩm xanh, đồng thời hỗ trợ người tiêu dùng tiếp cận hàng hóa thân thiện, bảo vệ sức khỏe.
Tại Việt Nam, hệ thống pháp lý về nhãn xanh được hình thành từ Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, năm 2014 và hoàn thiện trong luật năm 2020.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành tiêu chí cụ thể cho các nhóm này, một số doanh nghiệp đã được cấp chứng nhận nhưng số lượng còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu do năng lực doanh nghiệp trong nước còn yếu, thiếu nguồn lực đổi mới công nghệ, chính sách ưu đãi chưa rõ ràng, nhiều quy định mới dừng ở luật mà thiếu văn bản hướng dẫn.
Ông Nam dẫn chứng, luật quy định thuế bảo vệ môi trường 40.000 đồng/kg đối với túi nilon khó phân hủy, nhằm hạn chế sản xuất và khuyến khích túi sinh học. Tuy nhiên thực tế nhiều cơ sở nhỏ lẻ vẫn trốn thuế và tiếp tục sản xuất loại túi này.
Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã tích hợp các quy định về nhãn sinh thái thành một hệ thống thống nhất - Nhãn sinh thái Việt Nam, đồng thời bổ sung ưu đãi với sản phẩm, dịch vụ xanh. Các dự án đầu tư công khi mời thầu sẽ ưu tiên sản phẩm thân thiện môi trường.
Đây được coi là bước tiến quan trọng, kỳ vọng sẽ thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ hơn vào sản xuất xanh, bền vững, theo ông Nam.