“Vua vũ khí" 11 năm ở Pháp, bỏ lương 22 lượng vàng theo Bác về nước

(Dân trí) - Theo con trai GS Trần Đại Nghĩa, cha ông kể, không một nước nào ngớ ngẩn công bố các tài liệu kỹ thuật quân sự. Cha ông đã tìm mọi cách khác nhau, bí mật tiếp cận tài liệu vũ khí ngay trên đất Pháp.
Ngày 16/9/1946, chàng trai Phạm Quang Lễ (sau đổi tên là Trần Đại Nghĩa) theo chân Bác Hồ lên chuyến tàu hỏa đặc biệt xuống phía Nam nước Pháp để bắt đầu hành trình về Việt Nam.
Khung cảnh Paris khuất dần sau những khung cửa sổ...
Gắn bó với thủ đô Paris hoa lệ 11 năm, nhưng chàng trai 33 tuổi không mảy may nuối tiếc cuộc sống nhung lụa ở trời Âu, mức lương 5.500 franc/tháng (22 lượng vàng) hay những cơ hội rộng mở cho một trí thức sở hữu 4 bằng đại học, biết 5 thứ tiếng (Pháp, Đức, Anh, Nga, Trung Quốc).
Chuyến hồi hương ấy là khát khao của một người con xa xứ bấy lâu mong ngóng ngày trở về để được góp sức vào cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giải phóng dân tộc. Cũng chuyến hồi hương ấy đã đưa về cho dân tộc Việt Nam một trí thức “một lòng nhiệt tình về phụng sự Tổ quốc, phục vụ kháng chiến”, một nhà khoa học lớn của cách mạng, người được mệnh danh là “ông vua vũ khí Việt Nam”, “ông Phật làm súng”… - Giáo sư, Viện sĩ, Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa.
Những ngày tháng 8, khi khắp nơi rực rỡ cờ hoa mừng Quốc khánh, mỗi người lại thêm nhớ về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại cùng thế hệ những anh hùng, những nhà khoa học đã cùng nhau góp sức đấu tranh giành hòa bình, xây dựng đất nước. Một trong số những anh hùng đã trở thành huyền thoại ấy là GS Trần Đại Nghĩa.
Hoài bão năm 17 tuổi - chế tạo vũ khí đánh Tây
Trong không gian yên bình của ngôi nhà in đậm nhiều vết thời gian trên phố Hàng Chuối (Hà Nội), nơi GS Trần Đại Nghĩa sinh sống nhiều năm, Đại tá Trần Dũng Trí - con trai cả của GS Trần Đại Nghĩa - bồi hồi nhớ về người cha của mình.
Đại tá Trần Dũng Trí kể, cha ông sinh ra ở Vĩnh Long trong một gia đình có bố là thầy giáo “trên hiểu thiên văn, dưới tường địa lý, giữa biết lòng người" nổi danh tài đức một vùng, mẹ là con nhà gia giáo, độ lượng nhân từ.
Từ nhỏ Phạm Quang Lễ đã bộc lộ những khả năng đặc biệt về toán học. Thấy vậy, người cha dành nhiều thời gian rèn giũa, giao cho Lễ những bài toán khó. Có những bài cao hơn chương trình cậu học tới 3 lớp nhưng Lễ vẫn tìm ra cách giải. Cậu được cha dạy toán, dạy về khoa học tự nhiên và cả tiếng Pháp.
Năm lên 7 tuổi, Phạm Quang Lễ rơi vào cảnh mồ côi cha. Để con không lỡ dở việc học, mẹ đã gửi Lễ đến nhà một đồng nghiệp lâu năm của cha.
Những ngày xa nhà, thương nhớ người cha đã khuất, Phạm Quang Lễ luôn nhớ đến những lời căn dặn của cha trước lúc đi xa làm động lực: “Con phải cố gắng học hành để trở thành người có ích. Có thể sau này con sẽ nối nghiệp ba đi dạy học. Cũng có thể con sẽ làm nghề khác. Nhưng làm nghề gì thì ngoài việc nuôi thân, nuôi má, nuôi chị, con hãy cố gắng làm thêm những việc có ích cho mọi người…”.
Theo Đại tá Trần Dũng Trí, cha ông kể lại rằng, trên con đường đi học mỗi ngày thường phải chứng kiến cảnh người dân đói khổ, ăn mặc rách rưới, bị bọn lính Tây kéo lê trên đường, đánh đập mà không dám phản kháng. Một số lần cảnh người dân bất lực ngồi giữa cầu khóc nức nở rồi nhảy xuống sông tự tử.
“Khi cha tôi hỏi mọi người xung quanh thì mới biết là do chế độ tàn ác của thực dân Pháp, đồng bào bất lực chỉ còn cách là tự tử. Hình ảnh ấy đã nung nấu trong ông lòng căm thù giặc sâu sắc, khát khao đánh đuổi quân thù.
Đến khi học ở Trường Trung học Mỹ Tho, ông hiểu hơn về tình hình của nhiều cuộc đấu tranh. Chúng ta có tướng tài, quân và dân anh dũng nhưng vẫn thua vì vũ khí quá lạc hậu. Kể từ đó, cha tôi nhận ra, muốn phục vụ đất nước thì phải biết chế tạo vũ khí.
Nếu có vũ khí, có những con người có tài thao lược thì cuộc chiến nhất định sẽ thắng lợi. Ông xác định mục tiêu của bản thân: Chuẩn bị về vũ khí cho các cuộc nổi dậy trong tương lai, sự chuẩn bị ấy đi đôi với khoa học quân sự. Đó là hoài bão của cha tôi năm 17”, Đại tá Trần Dũng Trí kể về những tâm sự được GS Trần Đại Nghĩa viết trong hồi ký.
11 năm tuyệt mật của Việt kiều độc nhất ở Pháp nghiên cứu về vũ khí
Nhận định chỉ có con đường đấu tranh vũ trang mới có thể giải phóng dân tộc khỏi ách cai trị của thực dân, đế quốc, Phạm Quang Lễ đặt mục tiêu đi du học để tìm hiểu về vũ khí.
Đại tá Trần Dũng Trí cho hay, năm 20 tuổi, cha ông đã thi đỗ thủ khoa cả tú tài Tây và tú tài bản xứ, sau đó ít lâu được sang Pháp du học.
Từ khi đặt chân lên đất Pháp, Phạm Quang Lễ tranh thủ từng giây từng phút để học tập, tìm hiểu về vũ khí. Tuy nhiên, đây lại là lĩnh vực bí mật và cấm tuyệt đối với người dân các nước thuộc địa, chỉ cần để lộ ra ý định này, ông sẽ bị trục xuất ngay khỏi nước Pháp. Chính vì vậy, suốt 11 năm, ông chỉ còn cách âm thầm, bí mật học tập về vũ khí thông qua nhiều cách.
Đơn xin dự thi vào Trường Quốc gia Cầu đường Paris và lớp sinh viên của trường năm 1936, Phạm Quang Lễ hàng đầu đeo kính (Ảnh: Tư liệu).
“Chỉ trong một thời gian ngắn cha tôi đã tốt nghiệp và có được bằng của nhiều trường đại học của Pháp: kỹ sư cầu đường, kỹ sư điện, cử nhân toán, kỹ sư hàng không và nhiều chứng chỉ khác ở trường về mỏ, bách khoa...”, người con cả của GS Trần Đại Nghĩa nói.
Trong khi bạn bè cùng lớp thường rủ nhau đi nhảy đầm, thăm thú cảnh đẹp nước Pháp thì chàng trai Phạm Quang Lễ cứ rời giảng đường lại tìm đến thư viện. Ông tìm đọc các luận văn, sách báo về chiến thuật, chiến lược, sưu tầm tài liệu về các loại vũ khí.
Bà Nguyễn Thị Quang, nguyên cán bộ Bảo tàng Hồ Chí Minh - vợ của Đại tá Trần Dũng Trí, con dâu của GS Trần Đại Nghĩa - chia sẻ, cha chồng bà đã để lại ấn tượng tốt với vị thủ thư người Pháp bởi sự ham học hỏi, khiêm tốn, thật thà.
Dù biết nhà nước Pháp cấm du học sinh "thuộc địa" tiếp cận các tài liệu liên quan đến vũ khí, quân sự, vị thủ thư vẫn âm thầm giúp đỡ, cho mượn sách quý về chế tạo vũ khí và sử dụng thuốc nổ, về thiết kế, chế tạo các loại súng vào ngày cuối tuần. Du học sinh Phạm Quang Lễ phải đọc thật nhanh rồi đem trả vào sáng thứ hai trước giờ thư viện mở cửa.
Sau này trong hồi ký, GS Trần Đại Nghĩa cũng viết rằng: "Công việc chẳng phải là giản đơn. Không một nước nào trên thế giới lại ngớ ngẩn công bố các tài liệu kỹ thuật quân sự. Đế quốc Pháp đâu phải điên đến mức để cho một người Việt Nam, kể cả những kẻ đã vào "làng Tây", được đến học ở các trường dạy về vũ khí hay vào làm ở các viện nghiên cứu, các nhà máy sản xuất vũ khí. Vì thế, trong 11 năm đằng đẵng ấy, tôi chỉ có thể mò mẫm tự học một cách âm thầm, đơn độc và bí mật hoàn toàn....".
Quá trình nghiên cứu, GS Trần Đại Nghĩa nhận ra, Đức là quốc gia đạt được nhiều thành tựu về quân sự, vũ khí. Để đọc các tài liệu nguyên bản và giải mã những kiến thức về lĩnh vực này trong sách vở, ông đã tự học tiếng Đức với lối học rất đặc biệt là học qua từ điển, thuộc lòng 4.000 từ trong 2 tháng nghỉ hè.
Tại Pháp sau khi tốt nghiệp, GS Trần Đại Nghĩa đã xin vào làm việc tại các nhà máy sản xuất máy bay. Năm 1942, ông còn chuyển sang Đức làm việc trong nhà máy chế tạo máy bay ở Halle (miền Trung nước Đức). Ông thường xuyên “nhảy” việc nhằm tích lũy nhiều kinh nghiệm và hiểu biết trong lĩnh vực kỹ thuật, đặc biệt là để có cơ hội tiếp cận với các loại vũ khí, máy bay chiến đấu…
Sau 11 năm tìm kiếm, ông đã tích lũy được khối kiến thức khổng lồ về vũ khí, khoa học quân sự, khối lượng tài liệu ước lượng khoảng 1 tấn. Tất cả cùng với trí tuệ tôi rèn nhiều năm là hành trang được ông mang về nước phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc.
Lớp học đặc biệt của Bác Hồ trong 1 tháng lênh đênh trên biển
Tháng 6/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Pháp và tham dự hội nghị tại Fontainebleau, tranh thủ cơ hội đàm phán để kéo dài thời gian hòa hoãn nhằm chuẩn bị cho toàn dân bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ.
Phạm Quang Lễ có dịp gặp gỡ với Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các buổi giao lưu cùng các nhân sĩ, trí thức người Việt đang làm việc và học tập tại Pháp. Ông đã trình bày với Bác nguyện vọng và những thành quả mình thu thập được trong khoảng thời gian miệt mài học tập, làm việc tại Pháp, những kinh nghiệm rút ra từ cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai.
Những ngày tiếp xúc với Bác Hồ ở Paris, Phạm Quang Lễ luôn có một cảm giác lạ thường, “một tiếng gọi thiêng liêng vừa gần, vừa xa, cũng rất gần gũi bên tai”, “lời của Bác, hình ảnh và linh hồn của Tổ quốc kính yêu”. Tiếng gọi đó trùng hợp với ước mơ và hoài bão tuổi trẻ của ông lúc bấy giờ.
“Biết rõ tâm lý của trí thức, Bác không hỏi tôi có muốn về nước không, chỉ đến ngày 10/9/1946, Bác cho biết là hội nghị Fontainebleau không thành công và bảo: "Bác sắp về nước, chú chuẩn bị để vài ngày nữa chúng ta lên đường…
Đối với tôi, việc này rất dễ dàng vì tôi đã chuẩn bị từ lâu, chỉ cần 1 giờ là đủ. Như vậy, trong 2 tháng, Bác không nói, nhưng đã giáo dục tôi rất nhiều về chính trị và tư tưởng”, GS Trần Đại Nghĩa chia sẻ trong hồi ký về thời gian gặp gỡ Bác Hồ trên đất Pháp trước khi về nước.
Ngày 16/9/1946, Chính phủ Pháp bố trí một chuyến tàu hỏa đưa Bác Hồ cùng đoàn gồm 4 Việt kiều về nước: Kỹ sư Phạm Quang Lễ, bác sĩ Trần Hữu Tước, kỹ sư Võ Quý Huân và kỹ sư Võ Đình Quỳnh. Trong một cuộc trò chuyện trên tàu, Bác Hồ đã hỏi hai câu khiến Phạm Quang Lễ nhớ mãi.
“Câu thứ nhất: "Bây giờ ở nhà cực khổ lắm, chú về có chịu nổi không?". Tôi trả lời: "Thưa Bác tôi chịu nổi". Câu thứ hai bác hỏi: "Bây giờ ở nhà kỹ sư, công nhân về vũ khí không có, máy móc thiếu, liệu chú có làm được việc không?". Tôi nói: "Thưa Bác, tôi đã chuẩn bị 11 năm rồi và tôi tin là sẽ làm được", GS Trần Đại Nghĩa viết trong hồi ký.
Ngày 18/9/1946, cả đoàn tiếp tục hành trình lên tàu thủy về nước. Chuyến tàu lênh đênh trên biển suốt một tháng. Phạm Quang Lễ được trải qua một khóa huấn luyện đặc biệt, học nhiều môn khoa học khác nhau mà người thầy không ai khác đó là chính là Bác Hồ.
Nội dung học tập được Bác Hồ chắt lọc, tổng kết từ những tinh hoa truyền thống của dân tộc, của các đạo lý, chân lý xưa và nay, cả phương Đông lẫn phương Tây. Những bài học sinh động đã giúp chàng Việt kiều trẻ tuổi tiếp thu thêm nhiều kiến thức, kinh nghiệm trước khi bước vào cuộc đời mới. Và đặc biệt, Phạm Quang Lễ có cơ hội hiểu thêm về một vị lãnh tụ mẫu mực, đức độ, tài năng nhưng rất đỗi giản dị, gần gũi.
Có rất nhiều công trình khoa học, đề tài nghiên cứu và sách viết về GS Trần Đại Nghĩa.
1 tấn tài liệu bị thất lạc và cách "vua vũ khí" sản xuất súng đạn thời thiếu thốn
Trở về nước, trước yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Pháp cam go, ác liệt, ngày 5/12/1946, hai tuần trước khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Phạm Quang Lễ được Bác Hồ giao làm Cục trưởng Cục Quân giới. Ông có nhiệm vụ nghiên cứu, chế tạo vũ khí để bộ đội ta đánh giặc. Cũng ngày ấy, ông được Bác Hồ đặt cho cái tên mới “Trần Đại Nghĩa”.
“Bác nói với ba tôi: “Chú lo vũ khí cho bộ đội. Đây là việc đại nghĩa, vì thế Bác đặt cho chú tên là Trần Đại Nghĩa. Đây là bí danh từ nay trở đi của chú, để giữ bí mật và cũng là giữ an toàn cho bà con thân thuộc của chú ở trong miền Nam”, Đại tá Trần Dũng Trí kể.
Chuẩn bị 1 tấn sách, tài liệu, ghi chép để mang về nước nhưng bị thất lạc khi gửi một người bạn. Bởi vậy, GS Trần Đại Nghĩa chỉ còn cách duy nhất là khơi lại những kiến thức đã tích lũy trong đầu. Lúc nào ông cũng mải mê nghiên cứu, cứ nhớ ra gì là ghi chép ngay lập tức.
Chia sẻ về những thành tựu góp phần tạo nên sức mạnh cho chiến trường, GS Trần Đại Nghĩa viết trong hồi ký: “Đầu năm 1948, chúng tôi nghiên cứu và chế xong 3 khẩu bazooka và 10 viên đạn. Anh Phan Mỹ giao cho đồng chí Vương Thừa Vũ. Anh em bộ đội dùng súng bazooka bắn 3 phát hạ 2 xe tăng địch.
Sau thành công đó, chúng tôi sản xuất hàng loạt súng bazooka, cố gắng giao cho bộ đội trước tháng 7/1948. Trong việc chế tạo vũ khí, chúng ta dùng sắt thép lấy từ đường ray do ta phá để chặn đường tiếp tế của địch. Đồng bào các nơi cũng rất tích cực ủng hộ, từ nồi đồng đến các dụng cụ bằng sắt, thậm chí có đồng bào còn hiến cả lư hương (bình cắm hương thờ). Sau đó, tôi phải nói rằng không lấy lư hương của đồng bào”.
Từ những nguyên liệu chắt chiu trong nhân dân, tận dụng hàng nghìn tấn sắt thép từ máy bay, xe tăng của Pháp bị bắn hỏng, GS Trần Đại Nghĩa và đồng đội đã chế tạo ra các vũ khí trang bị cho quân đội. Đứng sau đó, là sự tiếp sức của nhân dân.
Công việc vận chuyển hàng nghìn tấn sắt thép vô cùng khó khăn, nhưng do đồng bào tận tình giúp đỡ nên chuyến nào cũng tới nơi an toàn. “Đồng bào ta đã không ngại nguy hiểm và gian khổ, đi lấy phân dơi ở các hang đá về cho chúng tôi chế thuốc súng”, GS Trần Đại Nghĩa viết.
Theo “vua vũ khí Việt”, trong 3 năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam chưa được Liên Xô và Trung Quốc giúp đỡ về vũ khí và vật chất, nhưng đã đập tan kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của kẻ thù.
Liên Xô khâm phục Việt Nam vì trong 3 năm đó, với sức mạnh và vũ khí hiện đại, Pháp đủ sức để đánh chiếm các điểm chủ yếu của Việt Nam, nhưng nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên quyết đánh lại thực dân Pháp. Đó không phải là một sự liều mạng, mà có cơ sở vững chắc là tiến hành bằng chiến tranh nhân dân.
Một số hình ảnh tư liệu về Bác Hồ và GS Trần Đại Nghĩa (Ảnh: Chụp lại tư liệu).
Theo nhiều tài liệu ghi chép, trong hai cuộc kháng chiến, GS Trần Đại Nghĩa đã sáng chế và cải tiến nhiều loại vũ khí chiến đấu giúp bộ đội làm rung chuyển chiến trường, giành chiến thắng. Đó là những sản phẩm nổi tiếng trong lịch sử kháng chiến như đạn bazooka; SKZ (đại bác không giật) xuyên được bê tông cốt thép dày 60cm, dày hơn các pháo đài của Pháp; các loại bom bay có sức công phá mạnh...
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, GS Trần Đại Nghĩa đã góp phần to lớn trong cuộc chiến chống máy bay B-52, phá hệ thống thủy lôi của địch và chế tạo những trang thiết bị đặc biệt cho bộ đội đặc công.
GS Trần Đại Nghĩa đã dùng kinh nghiệm trong Chiến tranh thế giới thứ hai về kết hợp tàu bay, đại bác, phòng không, tên lửa để đánh với không quân Mỹ. Ông cũng chỉ đạo nghiên cứu phương pháp chống bom từ trường làm cho bom nổ ở xa; chống bom điều khiển bằng laser…
Chiều 30/4/1975, ít giờ sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, GS Trần Đại Nghĩa đã ghi vào sổ tay: “Nhiệm vụ của Bác giao cho tôi và tập thể các nhà khoa học Việt Nam là tham gia về mặt vũ khí và khoa học quân sự trong hai cuộc kháng chiến đã được hoàn thành. Từ nay đến hàng nghìn năm sau, chúng tôi xin bàn giao lại nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cho thế hệ ngày nay và thế hệ mai sau”.
Theo Đại tá Trần Dũng Trí, phụng sự Tổ quốc là hoài bão cũng là lý tưởng cha ông theo đuổi suốt cuộc đời. Sinh thời, cha ông từng chia sẻ: "Bạn bè của tôi ở lại bên Pháp, họ đều sung sướng, đầy đủ hơn tôi. Nhưng về khía cạnh phụng sự Tổ quốc, họ chẳng có gì cả".
Những ngày cuối đời, GS Trần Đại Nghĩa cũng luôn nhắc về lý tưởng ấy. “Khi nằm trên giường bệnh, ba tâm sự rằng bản thân không còn gì hối tiếc. Ba đã hoàn thành những nguyện vọng của mình với Tổ quốc.
Cuộc đời ba trải qua những giai đoạn vô cùng cực khổ nhưng vì lý tưởng, ba đã vượt qua tất cả, trong lòng ba cảm thấy rất mãn nguyện và thanh thản”, Đại tá Trần Dũng Trí chia sẻ.
GS Trần Đại Nghĩa (1913-1997) là Cục trưởng đầu tiên của Cục Quân giới. Sau năm 1954, ông giữ các chức vụ: Phó Chủ nhiệm Tổng Cục Hậu cần, Phó Chủ nhiệm Tổng Cục Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng (1966-1977).
Bên cạnh lĩnh vực quân sự, trong lĩnh vực dân sự, ông cũng giữ các chức vụ: Thứ trưởng Bộ Công Thương (1951-1960), Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nặng (1960-1963), Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết Cơ bản Nhà nước (1963-1972). Ông là Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông cũng là giám đốc đầu tiên của Trường Đại học Bách khoa.
Trong lĩnh vực khoa học, ông từng giữ các trọng trách: Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam, Chủ tịch đầu tiên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Ngày 8/2/1966, ông được vinh dự tặng danh hiệu Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
Năm 1996, ông được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 về Cụm công trình nghiên cứu và chỉ đạo kỹ thuật chế tạo vũ khí (bazooka, súng không giật, đạn bay) trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Trước đó, ông cũng được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Ba và Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
*Bài viết có tham khảo tư liệu trong cuốn "Trần Đại Nghĩa - Chân dung nhà khoa học anh hùng", Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự thật.
Bài 2: Chuyện tình yêu của “vua vũ khí Việt" và đám cưới đặc biệt đúng ngày 2/9
Ảnh: Nguyễn Hà Nam