Tình trạng ngập nước ở TP.HCM diễn ra từ lâu nhưng mọi giải pháp chống ngập đều không hiệu quả, cho nên mới có câu 'càng chống ngập càng bị ngập'. Không biết rõ những nguyên nhân để có giải pháp tổng thì không chống ngập được. Dùng 'tư duy nhiệm kỳ' để chống ngập cũng không chống ngập được.
Anh bạn tôi, một chuyên gia về ô tô và môi trường làm việc ở Đức mấy chục năm, nói với tôi rằng ở Đức có giải pháp chống ngập rất hay. Đó là khi bạn làm đường trong sân vườn để ô tô chạy vào nhà, nếu đoạn đường đó chỉ đổ bê tông theo vệt bánh xe thì thuế của bạn sẽ được giảm so với đổ bê tông kín cả con đường.
Ý của anh ấy là, chính phủ Đức khuyến khích các hộ gia đình tăng diện tích cho nước mưa thấm tự nhiên xuống đất để chống ngập. Mỗi hộ dân phải nộp một khoản "phí thoát nước mưa", khoảng 1,5 - 2 Euro/m2/năm (tùy thành phố) cho phần diện tích không thấm nước mưa (như bê tông và mái nhà) trong khu nhà của mình.
Diện tích bê tông trong sân vườn càng ít thì phí càng thấp. Đức còn có chính sách khuyến khích dùng nước mưa, nếu ngoài nước máy bạn làm thêm bể chứa nước mưa để tưới cây hoặc giặt rửa thì nhà nước cũng sẽ hỗ trợ chi phí làm bể chứa hoặc giảm đơn giá nước máy trong hóa đơn hoặc cả hai.
Không chỉ ở Đức, các nước như Mỹ, Anh, Úc, Singapore, EU và nhiều quốc gia khác cũng áp dụng các chính sách khuyến khích bằng giảm thuế, phí và hỗ trợ tương tự để giảm thiểu tình trạng bê tông hóa trong xây dựng.
Đó là các chính sách khuyến khích ngoài quy định bắt buộc, không những đối với các dự án nhà ở mà nhà dân riêng lẻ ở đô thị cũng phải dành một tỷ lệ tối thiểu (20 - 30% hoặc hơn, tùy quốc gia) cho bề mặt thấm nước mưa, ai vi phạm sẽ bị từ chối cấp phép hoặc bị phạt nặng.
Ở những nước nói trên và phần lớn những nước phát triển, hiếm thấy những căn nhà liền kề ở các đô thị lớn không có diện tích thấm nước mưa tự nhiên như ở nước ta; nếu có ở một số nơi cũng chỉ là những căn nhà cũ và được cải tạo dần theo quy định mới, một số nước như Singapore thì hầu như không có.
Những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ngập lụt đô thị
Thứ nhất. Tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh kéo theo bê tông hóa tràn lan. Tôi dẫn câu chuyện làm cái đường ô tô trong vườn nhà ở Đức để thấy các nước người ta cẩn trọng như thế nào đối với vấn đề bê tông hóa.
TP.HCM (cũng như cả nước) không những không có chính sách gì để khuyến khích giảm bê tông hóa như "thông lệ quốc tế" nói ở trên mà trong một thời gian dài còn không có những quy chuẩn nào để giới hạn bê tông hóa.
Từ năm 2006 trở lại đây, Chính phủ và ngành xây dựng mới có những quy định dành khoảng 20 - 30% cho diện tích thấm nước tự nhiên (bao gồm cây xanh, thảm cỏ, hồ điều hòa…) đối với dự án khu đô thị và dự án nhà ở.
Tuy nhiên, nhà dân riêng lẻ không bị quy định này chi phối. Do đó, tình trạng bê tông hóa ở các khu đô thị và khu dân cư xây dựng trước năm 2006 và người dân tự bê tông hóa ngôi nhà của mình hiện nay vẫn không bị thuế má hay phạt vạ gì. Tình trạng này cộng với việc thu hẹp đất nông nghiệp không được tính toán đã khiến tình trạng ngập ngày càng gia tăng.
Thứ hai. Hệ thống kênh rạch và hồ tự nhiên bị san lấp vô tội vạ (cái thì chính quyền làm, cái thì người dân lấn chiếm). Theo ước tính sơ bộ, từ năm 1975 đến nay có hơn 100 kênh rạch bị xóa sổ, đó là chưa tính các kênh rạch bị lấn chiếm thu hẹp và hàng chục hồ tự nhiên cũng bị xóa sổ theo.
Cùng với hệ thống kênh rạch, những hồ tự nhiên này giữ vai trò là hồ điều hòa vừa tích nước trong mùa mưa cho nước thấm tự nhiên xuống đất, giảm tải cho hệ thống cống thoát nước, vừa phục vụ tưới tiêu trong mùa khô.
Thành phố cũng đã có nỗ lực ngăn chặn việc san lấp, nhưng khôi phục lại toàn bộ hệ thống kênh rạch và hồ điều hòa tự nhiên này gần như là không thể.
Thứ ba. Nước ngầm ở thành phố bị khai thác quá mức khiến cho mực nước ngầm giảm kéo theo độ cao mặt bằng xây dựng giảm, là một trong những nguyên nhân gia tăng ngập nước.
Theo nhiều quan trắc, từ năm 1990 đến nay tốc độ sụt lún trung bình 2 - 3 cm, mức cao nhất khoảng 6 cm/năm, những khu vực tập trung như các công trình thương mại, tốc độ lún có nơi lên tới khoảng 7 - 8 cm/năm.
Vào năm 2018, thành phố đặt mục tiêu giảm khai thác nước ngầm từ hơn 716.000 m3/ngày của năm này xuống còn 100.000 m3/ngày vào năm 2025. Vào đầu năm 2025, UBND thành phố đã "nới lỏng" mục tiêu lên 255.000 m3/ngày so với 100.000 m3/ngày đã đề ra trước đây.
Tuy tình trạng sụt lún có góp phần làm gia tăng ngập, nhưng khai thác nước ngầm không phải là nguyên nhân duy nhất gây sụt lún, nó còn do sự biến đổi địa mạo không xuất phát từ sự can thiệp của con người.
Thứ tư. Hệ thống thoát nước của TP.HCM lạc hậu, chắp vá, không đồng bộ, không theo kịp với tốc độ phát triển của thành phố. Hệ thống này được xây từ thời Pháp thuộc, dù dân số gia tăng nhưng đến đầu thế kỷ 20 cũng chỉ hơn 200.000 người. Đến năm 1945 cũng mới có nửa triệu người, đến trước 1975 có khoảng 3 triệu.
Sau khi đất nước thống nhất, Sài Gòn - Gia Định đổi tên là TP.HCM với dân số khoảng 3,5 triệu. Đến nay (trước khi sáp nhập) dân số đã lên 9,97 triệu. Hệ thống thoát nước đã quá tải ngay từ thời VNCH. Từ sau khi đất nước thống nhất, chỉ tính từ 1990 đến nay nhà nước đã đầu tư hơn 50.000 tỉ đồng để cải tạo, nâng cấp, làm mới hệ thống thoát nước nhưng căn bản vẫn chắp vá, một số hệ thống đã làm mới vẫn lạc hậu, không theo kịp tốc độ gia tăng dân số và sự phát triển của thành phố.
Thứ năm. Là vấn đề "triều cường". Từ 4 nguyên nhân nói trên, hễ có mưa lớn mà có triều cường thì thành phố bị ngập, thậm chí chỉ một cơn mưa cũng gây ngập, đó là điều ai cũng biết.
Nhưng vấn đề "triều cường" ở TP.HCM và Nam bộ không giống bất kỳ nơi nào trên thế giới. Áp dụng những cách chặn thủy triều theo kinh nghiệm quốc tế (như Hà Lan hoặc Nhật Bản…) chắc chắn thất bại. Chúng tôi sẽ nói kỹ về câu chuyện triều cường ở bài sau.
Tác hại và hệ lụy khôn lường
Tình trạng ngập "kinh niên" ở nhiều nơi kéo dài tại TP.HCM gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng về kinh tế, đời sống và sức khỏe người dân. Ước tính tổng thiệt hại mỗi năm lên đến hàng chục ngàn tỉ đồng (1,3 tỉ USD, theo Ngân hàng Thế giới).
Tình trạng này nếu không được cải thiện thì thiệt hại mỗi năm có thể lên hàng chục tỉ USD trong tương lai không xa. Tất nhiên không ai có thể định lượng được những tác hại kép của cơ sở hạ tầng, đường sá, công trình công cộng bị hư hỏng, giao thông và logistics bị ách tắc cục bộ, sản xuất nông nghiệp bị ảnh hưởng và những hệ lụy khác. Một trong những hệ lụy là vấn đề nước thải.
Theo thông lệ quốc tế, mọi loại nước thải từ y tế đến công nghiệp đến nước thải sinh hoạt đều phải được đưa vào hệ thống xử lý thành "nước sạch" trước khi đưa ra môi trường. Tại TPHCM, từ năm 1990 trở về trước nước thải đô thị hầu như đưa thẳng ra môi trường, không có xử lý gì, đến nay thì nước thải từng bước được xử lý, thành phố đặt mục tiêu năm 2025 có 58% nước thải được xử lý và năm 2030 con số này lên 88% (cho thành phố sau khi sáp nhập).
Đó là bước tiến lớn về cải thiện môi trường, nhưng hiện vẫn chỉ có chưa tới 60% nước thải được xử lý, còn hơn 40% xả trực tiếp ra môi trường.
Bởi vậy, nước ngập trong thành phố bao gồm cả nước thải chưa được xử lý với vô số những chất độc hữu cơ và vô cơ cùng các mầm bệnh. Các bệnh da liễu và đường tiêu hóa của người dân ở những khu vực bị ngập gia tăng, khiến cho chi phí y tế tăng. Nước thải độc hại này còn ảnh hưởng đến việc sản xuất rau củ quả, khiến cho những vùng bị ngập khó có thể sản xuất được "rau sạch" đúng nghĩa. (còn tiếp)