Từ di sản du nhập đến biến thể văn hóa

Trước thềm kỷ niệm 71 năm ngày Giải phóng thủ đô (10.10), Hà Nội đang gấp rút cho khởi công và đẩy nhanh tiến độ chỉnh trang, xây dựng một loạt công viên - quảng trường mới xung quanh hồ Hoàn Kiếm và dọc hai bờ sông Tô Lịch. Từ một di sản thuộc địa được "Việt hóa", khái niệm quảng trường cho đến nay đang cần được "định nghĩa" lại để thích ứng với bối cảnh mới.
Quảng trường không phải là đặc trưng nội sinh của kiến trúc và đô thị VN, mà là di sản thuộc địa được du nhập. Tuy vậy, qua hơn 1 thế kỷ, nó đã được tiếp nhận, biến đổi và lai ghép: vừa mang dấu ấn quy hoạch phương Tây, vừa gắn kết với đời sống đô thị đương đại.
Hà Nội vừa hoàn thành phân kỳ 1 việc mở rộng và chỉnh trang quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục sau khi tòa nhà "Hàm Cá Mập" bị dỡ bỏ, kịp thời phục vụ các hoạt động kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2.9. Theo đó, một màn hình LED cỡ lớn đã được lắp đặt ở đầu hồi tòa nhà số 7 - 9 Đinh Tiên Hoàng; mặt đứng công trình trên các tuyến phố lân cận tòa nhà "Hàm Cá Mập" cũng đã được chỉnh trang (tháo dỡ mái che, mái vẩy…); bố trí thêm các ghế ngồi, bồn hoa di động; di dời bãi xe, trạm biến áp…
Mặc dù không gian đã được mở rộng đáng kể và cải tạo khang trang hơn, nhưng diện mạo mới của quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục sau khi hoàn thành phân kỳ 1 vẫn gây ra nhiều tranh cãi về tính thẩm mỹ cũng như tiện ích của công trình. Thừa nhận đây là "một bài toán rất khó", ông Nguyễn Mạnh Cường, Viện phó Viện Quy hoạch kiến trúc đô thị (Trường ĐH Xây dựng Hà Nội), đại diện đơn vị thiết kế phương án chỉnh trang, cải tạo công trình quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục, cho biết sẽ tiếp tục lắng nghe, tiếp thu ý kiến phản hồi của cộng đồng khi bước sang phân kỳ 2 gồm các hạng mục: xây dựng không gian ngầm dưới quảng trường, tái thiết mặt đứng tuyến phố liên quan, lát đá tổng thể khu vực, bổ sung các tiện ích đô thị... Quan điểm của đơn vị thiết kế là "không đưa kiến trúc châu Âu hay nước ngoài vào. Kiến trúc nơi này phải là kiến trúc của VN, của Hà Nội…".
Nhưng cho đến thời điểm hiện tại, cái gọi là đặc thù kiến trúc của Hà Nội, của VN vẫn chưa thấy hiển thị rõ nét trong diện mạo mới của quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Để hình thành nên một không gian quảng trường vừa phản chiếu những nét đặc thù của văn hóa Việt, kiến trúc Việt cũng như những thuộc tính vốn có của quảng trường, lại vừa phải mang một diện mạo phù hợp với bối cảnh đương đại quả là một bài toán khó.
Một mô thức nhập khẩu
Xét về bản chất, quảng trường là một khái niệm du nhập. Trong lịch sử đô thị tiền hiện đại VN, không tồn tại "quảng trường" theo nghĩa châu Âu. Chỉ từ cuối thế kỷ 19, cùng quy hoạch thuộc địa của Pháp tại Hà Nội và Sài Gòn, khái niệm place (quảng trường) và boulevard (đại lộ) mới được du nhập. Quảng trường trong bối cảnh này được định nghĩa là nút giao thông và thị giác, thường gắn với các công trình quyền lực như dinh thự, nhà hát, tượng đài...
Theo đó, tại Hà Nội dần hình thành các quảng trường như Place Négrier (Đông Kinh Nghĩa Thục), Place de l'Opéra (trước Nhà hát Lớn), Place Puginier (Ba Đình)... Còn tại Sài Gòn là các quảng trường: Place de la Cathédrale (quảng trường Nhà thờ Đức Bà), Place du Théâtre (quảng trường Nhà hát Thành phố), quảng trường trước Hôtel de Ville (nay là UBND TP.HCM)…
Các không gian này trở thành những ngoại lệ hình thái trong cấu trúc hữu cơ bản địa: ở Hà Nội, chúng mở ra kết nối giữa phố cổ và hồ Gươm hoặc khu phố Pháp; ở Sài Gòn, chúng định vị các công trình biểu tượng thuộc địa vào mạng lưới đại lộ.
Như vậy, quảng trường tại VN là một di sản đô thị lai ghép: không thuần Việt, không thuần Âu, nhưng đã trở thành một thành tố quan trọng, phản ánh sự giao thoa giữa quy hoạch ngoại nhập và văn hóa sử dụng bản địa.
Chuyển biến đương đại
Trong tiến trình châu Âu, quảng trường thường gắn bó với kiến trúc công cộng đặc thù, như nhà thờ, tòa thị chính, cung điện…, tạo nên một cặp đôi không gian - kiến trúc bền vững. Nó không chỉ là nơi diễn ra lễ hội mà còn thấm đẫm sinh hoạt thường nhật: chợ phiên, cà phê vỉa hè, các hoạt động cộng đồng liên tục. Quảng trường châu Âu tồn tại như một "phòng ngoài trời" với tỷ lệ khép kín rõ ràng, giúp người sử dụng cảm thấy được bao bọc và định hướng bởi các trục kiến trúc.
Ngược lại, ở VN, quảng trường sau thuộc địa thường được trưng dụng cho mít tinh, kỷ niệm chính trị, sự kiện tập thể… Chúng ít khi gắn liền với kiến trúc công cộng có đời sống hằng ngày (ngoại trừ nhà hát, song vai trò đã giảm). Điều này khiến quảng trường VN mang xu hướng "lễ nghi hóa" và "sự kiện hóa" nhiều hơn là không gian sinh hoạt cộng đồng tự phát.
Không hề bất ngờ khi chính quyền và người dân VN bắt đầu quan tâm nhiều hơn tới các không gian công cộng như quảng trường hay công viên, đặc biệt là dịp A50 và A80 vừa qua - vốn rất cần trưng dụng các không gian có sức chứa đông người.
Trong bối cảnh mật độ đô thị gia tăng và thiếu vắng diện tích công cộng, người dân gần đây bắt đầu tái chiếm lĩnh quảng trường, những không gian vốn nặng tính chính trị, để tham gia đi bộ, sinh hoạt ngoài trời, hoạt động thương mại cuối tuần và trình diễn văn hóa nghệ thuật. Điều này tiệm cận hơn với chức năng đô thị dân sự vốn phổ biến ở châu Âu. Quảng trường, không gì hơn, là đại diện của khái niệm dân chủ trong đô thị học.
Trong đô thị học, quảng trường là một "phòng ngoài trời" được định nghĩa bởi chu vi khối kiến trúc, nhưng không thuộc quyền kiểm soát tư nhân. Nó tạo nên một khoảng mở trong mật độ dày đặc, buộc phải chia sẻ bởi nhiều nhóm xã hội. Về nguyên tắc, đó là nơi không ai có độc quyền. Chỉ khi đạt đủ các yếu tố về tỷ lệ và hình thái học cùng khả năng chiếm lĩnh của người dân, khi đó quảng trường mới trở thành một thành tố hoàn chỉnh của hạ tầng đô thị. (còn tiếp)