Việc sở hữu tập đoàn sản xuất chip số 1 thế giới TSMC tạo ra nhiều ưu thế cho Đài Loan nhưng cũng khiến đảo này đối mặt với áp lực từ chính đồng minh quan trọng là Mỹ.
Theo CNA, phát biểu tại hội thảo mới đây được tổ chức bởi Viện Nghiên cứu kinh tế Đài Loan, chuyên gia Lưu Bội Chân cho biết kể từ khi Tổng thống Mỹ Donald Trump nhậm chức nhiệm kỳ 2, Washington đã tăng áp lực đáng kể lên Đài Loan liên quan lĩnh vực bán dẫn.
Từ "lá chắn silicon"
Bà Lưu Bội Chân chỉ ra rằng tập đoàn TSMC (Taiwan Semiconductor Manufacturing Company - Công ty sản xuất bán dẫn Đài Loan), đóng vai trò hàng đầu thế giới về đúc chip, đã trở thành mục tiêu chính của lợi ích chiến lược của Mỹ.
Thực tế nhiều năm qua, với nền tảng TSMC cùng nhiều tên tuổi khác của ngành bán dẫn ở Đài Loan, chính quyền Đài Bắc đã thực thi chiến lược dưới khái niệm "lá chắn silicon" với quan điểm rằng sự phụ thuộc toàn cầu vào chip của Đài Loan sẽ tăng cường an ninh cho đảo này. Trong đó, TSMC đóng vai trò số 1 thế giới về sản xuất chip bán dẫn. Cụ thể, theo số liệu thị trường quý 2 vừa qua, tập đoàn này chiếm 70% thị phần đúc chip toàn cầu và trong đó chiếm đến 90% nguồn cung chip bán dẫn tiên tiến toàn cầu.
Điều đó đã giúp cho Đài Loan sở hữu "lá chắn" quan trọng để Mỹ cùng các đồng minh bảo vệ đảo này trước Trung Quốc đại lục. Trong một lần trả lời Thanh Niên, một chuyên gia tình báo quốc phòng Mỹ chỉ ra rằng nếu Bắc Kinh phong tỏa Đài Loan hoặc bùng nổ xung đột giữa hai bên, thì nguồn cung cấp chip bán dẫn toàn cầu bị đổ vỡ. Trong khi đó, chip bán dẫn đang đóng vai trò quan trọng đối với chuỗi sản xuất toàn cầu khi hiện diện trong hầu hết các sản phẩm điện tử tiêu dùng, điện thoại di động, máy tính bảng, máy vi tính… đến xe hơi, xe máy. Phần lớn nhà máy của TSMC đóng tại Đài Loan và Trung Quốc đại lục. Chính vì thế, Mỹ cùng đồng minh phải tăng cường hỗ trợ Đài Loan trước sức ép của Trung Quốc.
Đến sức ép từ đồng minh
Trong khi đó, chip bán dẫn đang đóng vai trò cực kỳ quan trọng của nền kinh tế toàn cầu nói chung lẫn thương chiến Mỹ - Trung nói riêng. Điều đó khiến cho Washington phải hướng đến việc hạn chế lệ thuộc vào việc sản xuất của TSMC ở bên ngoài nước Mỹ. Định hướng này song hành việc Mỹ thời gian qua cũng tăng cường gây sức ép để các doanh nghiệp nước này như Intel, Qualcomm, NVIDIA… lẫn các tập đoàn công nghệ nước ngoài như Samsung phải tăng cường sản xuất trên chính đất Mỹ.
Hồi tháng 3, ngay sau khi nhậm chức, Tổng thống Trump đã công bố TSMC đầu tư lên đến 100 tỉ USD vào Mỹ. Sau đó vài tháng, khoản đầu tư của TSMC được Tổng thống Trump cập nhật con số mới lên đến 300 tỉ USD. Chưa dừng lại ở đó, đến tháng 9 vừa qua, Bộ trưởng Thương mại Mỹ Howard Lutnick đã gây chấn động khi tuyên bố rằng Washington không thể đảm bảo rằng sẽ bảo vệ Đài Bắc trừ khi đảo này đồng ý chia đôi sản lượng sản xuất chất bán dẫn với Mỹ theo tỷ lệ 50-50. Phía Đài Loan đã bác bỏ yêu cầu này của Mỹ, nhưng Washington đang không ngừng gia tăng sức ép để đạt được mục tiêu.
Trong khi đó, ở góc độ của TSMC vốn là một doanh nghiệp nên tập đoàn này thực tế cũng cần sự đảm bảo giữa bối cảnh căng thẳng quanh eo biển Đài Loan ngày càng tăng cao. Vì thế, từ trước khi Tổng thống Trump nhậm chức nhiệm kỳ 2, TSMC đã bằng cách mở rộng đầu tư sang Mỹ và Nhật Bản, để không còn "để trứng vào một giỏ". Thông qua Quỹ phát triển quốc gia, chính quyền Đài Loan hiện chỉ chiếm khoảng 7,69% cổ phần của TSMC và có đại diện trong hội đồng quản trị gồm 10 thành viên của công ty. Về mặt vận hành doanh nghiệp, việc sở hữu cổ phần khiêm tốn như thế khiến cho Đài Bắc khó có thể can dự vào các hoạt động của TSMC. Tất nhiên, chính quyền Đài Loan cũng có thể sử dụng sức mạnh hành chính để định hướng TSMC, nhưng điều này cũng khó khả thi vì nếu TSMC muốn mở rộng đầu tư sang Mỹ thì Đài Bắc dường như không thể ngăn cản trước sức ép từ Washington.
Theo những phân tích mới nhất, chiến lược "lá chắn silicon" của Đài Loan giờ đã chuyển sang phiên bản 2.0, mà trong đó sự đa dạng hóa ở nước ngoài của TSMC đang đưa Đài Loan vào mối quan hệ an ninh kinh tế đồng phụ thuộc với nhiều nước khác. Nếu TSMC ngày càng tăng cường đầu tư ra nước ngoài thì đây chính là một rủi ro không nhỏ cho an ninh Đài Loan.














