TP.HCM 'đang chìm' nhanh thứ 2 thế giới

Tình trạng sụt lún nền đất ở TP.HCM diễn ra liên tục từ năm 1990, với độ lún tích lũy đến nay ước tính khoảng 100 cm.
Sụt lún gia tăng
Trong thời gian gần đây, nhiều bạn đọc Báo Thanh Niên tại TP.HCM phản ánh đường Huỳnh Tấn Phát, đặc biệt là đoạn gần cầu Phú Xuân (P.Phú Thuận), mặt đường bị sụt lún tạo thành lòng chảo nên mỗi khi có mưa là đọng nước. Để tránh các khu vực lòng chảo, nước đọng nên các phương tiện giao thông thường phải lấn làn, khiến giao thông phức tạp, dễ xảy ra tai nạn. Không chỉ khu vực trên, nhiều nơi khác trên địa bàn TP cũng thường xuyên bị ngập do mưa lớn, triều cường.
Theo cơ quan chức năng TP.HCM, đường Huỳnh Tấn Phát cùng với Trần Xuân Soạn, Lê Văn Lương, Đào Sư Tích và QL50 là 5 tuyến giao thông thường xuyên bị ngập vào mùa triều cường cao. Ngoài ra, nhiều tuyến đường khác như Hồ Học Lãm, QL1, Đặng Thị Rành, Kha Vạn Cân, Bạch Đằng, Thảo Điền, Quốc Hương, Nguyễn Văn Hưởng… cũng thường xuyên bị ngập do mưa lớn kết hợp triều cường. Các tuyến đường này cũng nằm trong những khu vực có tốc độ sụt lún cao.
PGS-TS Lê Trung Chơn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển bền vững (Trường ĐH Tài Nguyên và Môi trường TP.HCM), dẫn các nghiên cứu gần đây cho biết năm 2014, Bộ TN-MT (cũ) thực hiện quan trắc 329 mốc độ cao để thực hiện dự án chống ngập cho TP.HCM. Theo kết quả quan trắc, có 111 mốc bị mất, chiếm tỷ lệ 33,7%, đáng chú ý có 143 mốc lún từ 5 cm đến hơn 70 cm tương đương với 43,5%, chỉ 75 mốc ổn định chiếm tỷ lệ 22,8%. Hiện tượng lún từ 5 - 10 cm tiếp tục diễn ra trên diện rộng, có nơi lún trên 70 cm.
Năm 2016, Chính phủ yêu cầu tiếp tục quan trắc sụt lún phục vụ quy hoạch và đo lặp thủy chuẩn hạng II. Kết quả cho thấy giai đoạn từ 2005 - 2015, nhiều khu vực tại TP.HCM lún trên 10 cm, tổng diện tích bị ảnh hưởng là 239 km². Lún tập trung tại các khu vực địa giới hành chính cũ gồm Bình Chánh, Bình Tân, Thủ Đức, Nhà Bè, Q.8, Q.7, Q.2, Q.12. Đáng chú ý có điểm đo giai đoạn từ 2005 - 2015 lún đến 73,3 cm (10 năm). Sau 2 năm, tại điểm đo này mức độ lún lên tới 81,7 cm (12 năm). Tình trạng tương tự cũng ghi nhận ở nhiều điểm đo khác.
Tương tự, khảo sát của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) cho thấy tình trạng sụt lún nền đất ở TP.HCM diễn ra liên tục từ năm 1990, với độ lún tích lũy đến nay ước tính khoảng 100 cm. Tốc độ lún hiện nay vào khoảng 2 - 5 cm mỗi năm. Riêng những khu vực tập trung xây dựng như các công trình thương mại, tốc độ lún khoảng 7 - 8 cm mỗi năm. Trong khi mực nước biển bình quân mỗi năm chỉ tăng khoảng 1 cm thì tốc độ lún nền đất cao gấp khoảng hai lần. Sụt lún đất kết hợp với triều cường và mực nước biển dâng làm tăng nguy cơ TP.HCM ngày càng "chìm dần" và ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển lâu dài của TP trong bối cảnh thích nghi với biến đổi khí hậu. Đối với TP.HCM, một đô thị lớn ở hạ lưu sông Sài Gòn thì tình trạng sụt lún đất đang là thách thức rất lớn cho sự phát triển bền vững.
"Những số liệu nghiên cứu cho thấy sụt lún vẫn diễn ra và có xu hướng gia tăng. Theo một nghiên cứu được công bố vào cuối năm 2024, TP.HCM đứng thứ 2 trong số 10 đô thị ven biển "đang chìm" nhanh nhất thế giới (sau Thiên Tân, Trung Quốc) do tình trạng lún mặt đất. Điều này đòi hỏi biện pháp quản lý và khắc phục hiệu quả hơn", TS Trung Chơn nhận định.
Thách thức lớn cho phát triển bền vững
Nghiên cứu "Sụt lún đất tại TP.HCM, nguy cơ và thách thức cho sự phát triển bền vững", do PGS-TS Lê Trung Chơn và các cộng sự thực hiện chỉ ra các yếu tố chính gây sụt lún: Thứ nhất là nền địa chất yếu, ở các khu vực có tốc độ lún trên 10 mm/năm thường nằm trên nền địa chất yếu, ngay cả khi không có tác động từ xây dựng, giao thông hay khai thác nước ngầm. Điều này cho thấy địa chất, địa mạo đóng vai trò quan trọng trong biến dạng mặt đất. Nguyên nhân quan trọng thứ hai là hoạt động giao thông (tải động), các khu vực có lưu lượng xe tải, xe bồn, xe container lớn hoặc khu vực có tuyến đường sắt đô thị đi qua thường bị lún nhiều hơn do tác động tải trọng liên tục. Thứ ba là tải tĩnh, các khu vực có tốc độ đô thị hóa với các công trình xây dựng lớn như cao ốc, chung cư cao tầng có thể tác động đến bề mặt đất. Yếu tố quan trọng thứ tư là tình trạng khai thác nước ngầm. Trước năm 2010, đây là nguyên nhân chính gây sụt lún tại các khu vực như Gò Vấp, Tân Bình, Q.12, Củ Chi. Hiện nay, TP đã hạn chế cấp phép khai thác, kiểm soát công suất nên tốc độ lún giảm đáng kể và các khu vực khai thác dần ổn định hơn.
Theo các chuyên gia, hiện tượng biến dạng sụt lún bề mặt đất là loại "tai biến địa chất" phổ biến trên thế giới và gây ảnh hưởng nghiêm trọng ở những vùng đô thị. Việc theo dõi hiện tượng này một cách thường xuyên cả trên diện rộng và những khu vực sụt lún mạnh là rất cần thiết; quan trọng hơn là nhằm mô phỏng, dự báo, phòng tránh và giảm thiểu tác hại của sụt lún đất cho các công trình.
Tuy nhiên, hiện nay ở TP.HCM, việc lượng hóa chính xác mức độ tác động của từng yếu tố vẫn gặp khó khăn do dữ liệu khảo sát địa chất, địa mạo chưa đủ mật độ, ảnh hưởng đến khả năng mô phỏng và dự báo biến dạng mặt đất. Do vậy, nhóm nghiên cứu đề xuất sử dụng kỹ thuật phân tích hồi quy không gian (geospatial regression analysic) để dự báo tốc độ lún đất tại TP.HCM dựa trên chuỗi dữ liệu lún đất được xác định từ kỹ thuật InSAR với dữ liệu địa chất, dữ liệu nước dưới đất.
PGS-TS Lê Trung Chơn khuyến cáo: Sụt lún mặt đất dù diễn ra từ từ, nhưng hậu quả của nó kết hợp với biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, triều cường gia tăng sẽ gây nên những hậu quả rất nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn đến hạ tầng kỹ thuật, công trình dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, việc theo dõi thường xuyên, mô phỏng, dự báo sụt lún mặt đất để đưa ra giải pháp thích nghi là hết sức cần thiết. Để ứng phó hiệu quả với sụt lún, TP.HCM cần xây dựng hệ thống giám sát và dự báo sụt lún nền đất một cách thường xuyên, áp dụng công nghệ hiện đại, nhằm hỗ trợ chính quyền đưa ra quyết sách phù hợp với điều kiện tự nhiên và phát triển bền vững. Tại Bắc Kinh (Trung Quốc), nhờ áp dụng công nghệ hiện đại và dữ liệu đầy đủ nên cơ quan chức năng đã lượng hóa được tỷ lệ trong số các nguyên nhân gây sụt lún, từ đó có giải pháp hữu hiệu.