(Dân trí) - Tổng thống Mỹ Donald Trump được cho là khó có thể áp dụng chiến thuật mà ông đã thành công ở Trung Đông vào cuộc xung đột Nga - Ukraine.
Cuộc xung đột quy mô lớn gần đây nhất ở Gaza bắt đầu vào ngày 7/10/2023, khi lực lượng Hamas tấn công lãnh thổ Israel, khiến 1.195 người thiệt mạng và bắt giữ 251 người làm con tin. Israel đáp trả bằng cách tấn công Dải Gaza.
Hai năm sau, Israel và Hamas đã đồng ý một thỏa thuận ngừng bắn do Mỹ và một số nước trong khu vực làm trung gian.
Vào ngày 13/10, Hamas đã thả tất cả 20 con tin còn sống đang bị giam giữ ở Gaza, và Israel cũng thả gần 2.000 tù nhân Palestine.
Theo thỏa thuận, Israel đã bắt đầu rút quân dần khỏi Dải Gaza. Tuy nhiên, lệnh ngừng bắn không bao gồm việc Israel rút quân hoàn toàn khỏi dải đất này.
Thỏa thuận hòa bình sau đó, do ông Trump thúc đẩy, được cho là đặt nền móng cho việc phi quân sự hóa Dải Gaza và triển khai lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế, đồng thời Hamas chuyển giao quyền lực cho các nhà kỹ trị Palestine dưới sự giám sát quốc tế. Theo kế hoạch, Israel dự kiến sẽ rút quân khỏi hầu hết Dải Gaza, ngoại trừ một vùng đệm dọc biên giới.
Hamas đã chấp nhận lệnh ngừng bắn nhưng chưa công khai đồng ý với các điều khoản trong thỏa thuận hòa bình tiềm năng của ông Trump.
Thành công của Tổng thống Mỹ Donald Trump trong việc làm trung gian cho thỏa thuận ngừng bắn giữa Israel và Hamas vào ngày 9/10 đã được ca ngợi trên toàn thế giới.
Tuy vậy, "chiến thắng ngoại giao" ở Trung Đông hoàn toàn trái ngược với khó khăn mà Tổng thống Trump đang phải đối mặt trong việc đàm phán một lệnh ngừng bắn ở Đông Âu.
Một lý do khách quan được cho là có thể giải thích cho sự khác biệt này. Tổng thống Trump có nhiều ảnh hưởng hơn đối với Israel so với Nga, trong khi Hamas được cho là đã bị suy yếu đến mức không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đồng ý ngừng bắn.
Một lý do chủ quan khác, theo các chuyên gia, là việc Tổng thống Trump muốn gây ảnh hưởng lên Israel, nhưng lại ngần ngại áp dụng điều đó với Nga.
Thỏa thuận ngừng bắn ở Gaza cho thấy hòa bình có thể đạt được khi có ý chí chính trị, điều mà các nỗ lực hòa bình của Tổng thống Trump ở Ukraine đang thiếu.
“Mỹ không có cùng mức độ ảnh hưởng đối với Nga như đối với Israel", Jenny Mathers, giảng viên chính trị quốc tế tại Đại học Aberystwyth của Anh, nói với trang tin Kyiv Independent.
Đòn bẩy khác biệt
Một điểm khác biệt giữa cuộc chiến ở Gaza và Ukraine là ảnh hưởng của Mỹ đối với Israel mạnh hơn so với Nga. Washington, đồng minh quân sự chính của Israel, đã cung cấp cho Israel vũ khí quan trọng và chia sẻ thông tin tình báo.
"Tổng thống Trump có ảnh hưởng đối với Israel nhiều hơn so với Nga. Mặc dù tổng thống vẫn còn tầm ảnh hưởng với Nga mà ông chưa sử dụng, nhưng dù vậy, ảnh hưởng của Mỹ đối với Israel vẫn lớn hơn rất nhiều", William Wohlforth, giáo sư chuyên ngành quan hệ quốc tế tại Đại học Dartmouth, nhận định.
"Đòn bẩy của Tổng thống Trump đối với (Thủ tướng Israel Benjamin) Netanyahu dựa trên mối quan hệ thể chế chặt chẽ giữa Mỹ và Israel, cũng như mối quan hệ cá nhân gần gũi giữa hai lãnh đạo", Neil Quilliam, chuyên gia về Trung Đông tại tổ chức Chatham House, cho biết.
Theo chuyên gia Mathers, “Mỹ cung cấp vũ khí cho Israel và là đồng minh lâu năm của Israel, với một lực lượng vận động hành lang ủng hộ Israel đông đảo và mạnh mẽ tại Mỹ, và sự ủng hộ dành cho Israel là trụ cột trong chính sách đối ngoại của Mỹ sau Thế chiến II”.
"Một mặt, điều này đồng nghĩa với việc các chính quyền Mỹ kế tiếp đều cảm thấy áp lực phải ủng hộ Israel công khai, gần như bất kể điều gì xảy ra. Mặt khác, nếu Washington thực sự mất kiên nhẫn với Israel và truyền tải thông điệp đó một cách hiệu quả, Israel cần phải chú ý", chuyên gia Mathers nói thêm.
Ngược lại, đòn bẩy của Mỹ đối với Nga hạn chế hơn.
Cả lệnh trừng phạt của phương Tây đối với Moscow lẫn viện trợ quân sự cho Ukraine đều không thể buộc Nga chấm dứt chiến dịch quân sự.
Không giống Israel, Moscow không phải là đồng minh phụ thuộc vào Washington, và hợp tác thương mại giữa Mỹ và Nga còn hạn chế, khiến các lệnh trừng phạt kinh tế trở nên kém hiệu quả.
Ông Trump đã gây sức ép buộc Ukraine đàm phán với Nga, và Tổng thống Volodymyr Zelensky đã đồng ý ngừng bắn vô điều kiện. Tuy nhiên, Nga vẫn chưa đồng ý.
Ông Trump cũng thường xuyên dọa trừng phạt Nga và các đối tác thương mại của nước này nhằm buộc Nga phải đồng ý ngừng bắn hoặc thỏa thuận hòa bình. Nhưng trong hầu hết các trường hợp, không có hành động nào được thực hiện sau những cảnh báo của nhà lãnh đạo Mỹ.
Một ngoại lệ đáng chú ý là quyết định áp thuế 25% đối với Ấn Độ vào tháng 8 của ông Trump vì nước này đã mua dầu của Nga. Tuy nhiên, mức thuế này không làm giảm lượng dầu nhập khẩu từ Nga của Ấn Độ.
Tổng thống Trump đã thực hiện một số bước nhỏ để tiếp tục cung cấp vũ khí cho Ukraine.
Sau khi hai lần ngừng viện trợ quân sự cho Ukraine, ông Trump đã công bố vào tháng 7 một sáng kiến, theo đó các thành viên khác trong khối NATO sẽ mua vũ khí do Mỹ sản xuất cho Ukraine.
Tuy nhiên, viện trợ quân sự của NATO cho Ukraine đã giảm trong tháng 7 và tháng 8 bất chấp kế hoạch này, theo báo cáo ngày 14/10 của Viện Kiel.
Phó Tổng thống Mỹ JD Vance cho biết vào tháng 9 cho biết Washington đang "xem xét" việc cung cấp cho Kiev tên lửa hành trình Tomahawk, có tầm bắn từ 1.600 đến 2.500km. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có quyết định nào được đưa ra về vấn đề này.
"Đòn bẩy mà Mỹ và các đồng minh phương Tây có được là khả năng tăng rủi ro chiến tranh cho Moscow bằng cách cung cấp vũ khí và viện trợ cho Ukraine, nhưng điều này đã không khiến (Tổng thống Nga Vladimir) Putin phải nhượng bộ trong hai năm dưới thời ông Biden, và suy yếu dưới thời ông Trump", Richard Betts, giáo sư về nghiên cứu chiến tranh và hòa bình tại Đại học Columbia, nhận định.
Theo chuyên gia Betts, “nếu ông Trump thực hiện cảnh báo gần đây về việc cung cấp tên lửa hành trình Tomahawk cho Ukraine, điều này sẽ thể hiện một sự thay đổi triệt để hơn trong việc ủng hộ Ukraine”.