Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội 14 đặt ra mục tiêu: Nâng cao đời sống văn hoá, thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, miền, giữa các tầng lớp nhân dân; chú trọng phát triển văn hóa vùng đồng bào DTTS.
Tiến sĩ Bàn Tuấn Năng (Viện Văn hoá Phát triển - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trưởng Ban đại diện nhóm “Người Dao Việt Nam - Gắn kết từ bản sắc”) cho rằng, để biến mục tiêu ấy thành hiện thực, trước hết phải thống nhất cách hiểu về “khoảng cách hưởng thụ”, đồng thời đo lường bằng những thước đo bền vững, tôn trọng sự đa dạng văn hoá của các cộng đồng và tuyệt đối tránh áp đặt duy ý chí.
Theo TS Bàn Tuấn Năng, “đời sống văn hoá” ở vùng dân tộc thiểu số (DTTS) cần có hệ thước đo bền vững, phản ánh đồng thời các trụ cột: sinh kế, tài nguyên – môi trường, bản sắc văn hoá và kinh tế trong văn hoá. “Đây vốn là tinh thần phát triển bền vững của miền núi và vùng đồng bào DTTS: văn hoá không đứng ngoài sinh kế, và sinh kế cũng không thể tách rời môi trường, bản sắc", ông nói.
Một điểm ông nhấn mạnh là phải thống nhất cách hiểu về mục tiêu “thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hoá”. Theo ông, cần làm rõ “khoảng cách trong hưởng thụ văn hoá hiện đại” - tức là khả năng tiếp cận các thiết chế, dịch vụ, sản phẩm, nền tảng số, công nghệ sáng tạo... “Tri thức bản địa của các dân tộc rất rộng và đa dạng: từ y dược học bản địa gắn với chăm sóc sức khoẻ, đến tri thức khai thác thực phẩm tự nhiên, canh tác sạch trong môi trường tự nhiên... Nhiều giá trị đang lấp lánh và hoà điệu với đời sống hiện đại, đóng góp thiết thực cho hưởng thụ văn hoá vật chất của cộng đồng. Nếu chỉ nhìn khoảng cách qua lăng kính hiện đại, rất dễ ‘bỏ quên’ ưu thế độc đáo của miền núi", TS Năng nhấn mạnh.
Ông cũng cho rằng không thể “cào bằng” vùng DTTS. Ngay trong cùng một địa phương, một xã đã xuất hiện những nhóm cư dân khai thác tốt cơ hội văn hoá - kinh tế số. Ông dẫn chứng thực tế ở một số địa bàn miền núi như Quảng Bình, Tuyên Quang, nơi có những hộ dân “lên rừng quay YouTube”, sở hữu kênh hàng trăm nghìn đến cả triệu người theo dõi, tạo thu nhập hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng mỗi tháng. “Vậy không thể nói tất cả đều cần ‘thu hẹp khoảng cách’ theo cùng một thước đo. So sánh như thế là lấy mét so với kilôgam, hoàn toàn khập khiễng”, ông ví von.
Theo ông, cách tiếp cận đúng phải là phân tầng đối tượng. Từ đó, TS đề xuất cần có khung đánh giá đời sống văn hóa hướng tới chất lượng thụ hưởng, chứ không chỉ đếm “số lượng hoạt động”. Nếu không có hệ đo lường, chính sách rất dễ trượt về hình thức phong trào.
Thiết chế hiện đại phải phản ánh tiếng nói và nhịp văn hoá của mỗi cộng đồng
Về thiết chế văn hoá, TS Năng cho rằng cần hướng tới hệ thống thiết chế văn hoá hiện đại vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập, vừa tôn trọng đặc trưng của cộng đồng DTTS. Các thiết chế này phải phù hợp với quy mô cộng đồng, cấu trúc xã hội và phong tục sinh hoạt địa phương. Thiết chế hiện đại phải “biết thở cùng đời sống địa phương”, phản ánh tiếng nói và nhịp văn hoá của mỗi cộng đồng.
Nhìn ở chiều cơ hội, chuyển đổi số là đòn bẩy để thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hoá hiện đại nếu: chính sách đi vào đúng nơi cần; hạ tầng kết nối bền vững đến tận thôn bản và đào tạo năng lực số gắn với những nhu cầu cụ thể như quay – dựng video, bán hàng trực tuyến, quản trị kênh nội dung...
“Chỉ khi người dân tham gia bình đẳng vào không gian văn hoá số, vừa là người xem vừa là người sáng tạo, thì khoảng cách mới thực sự thu hẹp”, TS Bàn Tuấn Năng nhấn mạnh.
Cuối cùng, ông nêu ra phương pháp thực hiện: phải dựa vào giới tinh hoa trong cộng đồng DTTS - gồm nghệ nhân, già làng, trí thức trẻ, doanh nhân bản địa - như những “hạt nhân dẫn dắt thay đổi”, cùng tham gia thiết kế chính sách và mô hình. Không chỉ là người giữ gìn tri thức, giới tinh hoa bản địa còn là cầu nối giúp cộng đồng bước vào quỹ đạo phát triển mới mà không bị hoà tan. Khi giới tinh hoa được đặt đúng vị trí, họ sẽ trở thành động cơ đồng trục kéo văn hóa, sinh kế và niềm tin cộng đồng tiến về phía trước, thay cho mọi sự áp đặt từ bên ngoài.
“Tuyệt đối không áp đặt duy ý chí theo mong muốn của đa số bên ngoài; làm vậy có thể tạo hiệu ứng ngược, thậm chí làm tổn thương bản sắc và niềm tin”, TS Năng khuyến cáo.
Theo ông, mục tiêu “thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hoá”, không phải là “đem thêm chương trình lên miền núi”, mà là trao quyền sở hữu - sáng tạo - hưởng lợi cho chính cộng đồng. Khi văn hoá trở thành sinh kế bền vững, được đo lường và tôn trọng đúng cách, văn hoá sẽ nuôi sống văn hoá - như cách TS. Bàn Tuấn Năng gọi đó là “con đường vừa công bằng, vừa tự tin cho các vùng DTTS trong giai đoạn phát triển mới”.















