'Vì công trình văn chương hấp dẫn và đầy viễn kiến, giữa nỗi kinh hoàng tận thế, đã lại xác nhận cho sức mạnh của nghệ thuật'.
Đó là lời giải thích của Viện hàn lâm Thụy Điển về lý do trao giải Nobel Văn chương năm nay cho nhà văn 71 tuổi người Hungary László Krasznahorkai.
Lý lẽ của Ủy ban Nobel phản ánh chính tinh thần thời đại này, khi mà thứ nghệ thuật siêu việt của Krasznahorkai cũng đang phải thở dài run rẩy trước quá nhiều đảo lộn, bất trắc và lo âu.
Thái độ kiêu bạc hậu hiện đại của László Krasznahorkai
Vài nét tiểu sử và hành trình sáng tác của người thắng giải đã được Ủy ban Nobel tóm tắt trên trang chủ, do chính Chủ tịch Anders Olsson chấp bút. Theo đó, László Krasznahorkai sinh năm 1954 tại thị trấn nhỏ Gyula ở đông nam Hungary, gần biên giới Romania.
Vùng nông thôn hẻo lánh tương tự chính là bối cảnh cho tiểu thuyết đầu tay của ông, Sátántangó, xuất bản năm 1985 - tác phẩm đã tạo nên cơn địa chấn văn chương tại Hungary và là bước đột phá của ông.
Cuốn tiểu thuyết khắc họa bằng lối viết đầy gợi mở về nhóm cư dân nghèo khổ sống trong một nông trại tập thể bỏ hoang ở vùng quê Hungary.
Những tác phẩm sau đó như Chống đối trong u sầu (1989), Chiến tranh và chiến tranh (1999), và Nam tước Wenckheim hồi hương (2016), với cấu trúc ngôn ngữ dày đặc như những lớp địa tầng trái đất, vốn tri thức toàn cầu (ông thông thạo trước tác triết học Phật giáo không kém gì truyền thống tư tưởng châu Âu), những nhân vật đầy ám ảnh, những khung cảnh ẩm ướt mưa dầm, có thể gây ấn tượng về thái độ kiêu bạc hậu hiện đại.
Lối viết đấy chỉ dành cho những bậc thầy, bởi từ sau Chiến tranh lạnh, những trường phái tận thế, siêu thực, và nhất là hậu hiện đại, có nguy cơ rất cao bị coi là già cỗi, thậm chí sáo rỗng, nhai lại.
Và Krasznahorkai quả đã tỏ ra là một bậc thầy - những trang văn của ông, người được Susan Sontag phong cho là "bậc thầy của khải huyền" - với tất cả những u ám âu sầu của nó, đồng thời vẫn là những nét điểm họa tài tình, tao nhã và hài hước một cách tinh tế.
Cách nghiêm trọng hóa vấn đề của ông có phong thái riêng, các sắc thái cảm xúc va đập vào nhau, để cùng hiện rõ trong nhiều tác phẩm khác ngoài các tiểu thuyết chính, bao gồm các truyện ngắn như Animalinside (2010), hay những văn bản có tầm vóc địa lý rộng lớn như Tàn phá và sầu muộn dưới bầu trời (2004).
Ý hướng tổng kết định mệnh trớ trêu nghiệt ngã của con người thành một sử thi trong tất cả những tác phẩm đó đồng thời là sự nối dài một truyền thống văn chương Trung Âu và Hungary vĩ đại, kéo dài từ Kafka đến Thomas Bernhard, từ Magda Szabó đến Imre Kertész (Nobel Văn học năm 2002), một truyền thống phi lý và thái quá một cách kỳ dị.
Hướng sang phương Đông
Nhưng Krasznahorkai còn có cả nhiều khía cạnh khác, gồm một góc rất đặc biệt, hiếm thấy ở một nhà văn lớn của châu Âu - hướng sang phương Đông - trong những tác phẩm có giọng văn chiêm nghiệm và tinh tế hơn.
Một loạt tác phẩm được truyền cảm hứng từ những ấn tượng sâu sắc trong các chuyến đi tới Trung Quốc và Nhật Bản của ông, gồm tiểu thuyết năm 2003 Bắc sơn, nam hồ, tây đạo, đông giang - câu chuyện bí ẩn trữ tình lấy bối cảnh Kyoto.
Tác phẩm này giống như khúc dạo đầu cho kiệt tác Seiobo ở dưới địa cầu (2008) - tuyển tập gồm 17 truyện sắp xếp theo dãy số Fibonacci, xoay quanh vai trò của cái đẹp và sáng tạo nghệ thuật trong một thế giới mù lòa và vô thường.
Đặc biệt khó quên là cảnh mở đầu, trong đó một con diệc tuyết đứng bất động giữa dòng sông Kamo ở Kyoto, chờ con mồi trong những xoáy nước phía dưới.
Vô hình trước đám đông người qua lại, con chim trở thành hình ảnh khó nắm bắt về nghệ thuật và vị trí đặc biệt của người nghệ sĩ trong một thế giới quá tấp nập, đông đúc, ồn ào và vô nghĩa.
Như tấm gương soi thời đại mình đang sống, những tiểu thuyết vừa tinh nghịch vừa bi quan của Krasznahorkai phát ra một thứ âm nhạc đặc trưng của sự phân rã.
Thứ âm nhạc đó trỗi lên dữ dội trong tác phẩm lớn gần đây nhất của ông, Herscht 07769: Florian Herscht Bach - tiểu thuyết (2021), tả lại bức chân dung thực tế về một thị trấn nhỏ bé ở nước Đức đương đại tưởng chừng bình yên nhưng cũng không thoát khỏi hỗn loạn xã hội. Nỗi kinh hoàng đấy lại diễn ra dưới cái bóng di sản âm nhạc hùng vĩ của Johann Sebastian Bach.
Những câu văn dài dằng dặc kiểu sử thi của Krasznahorkai dần bào mòn thực tại, chảy tràn lan vào suy tưởng, cho đến khi cuối cùng làm lộ ra bóng tối kinh hoàng được ẩn giấu ở trung tâm.
Nhiều điểm đặc trưng trong văn chương của ông - độc thoại ám ảnh, tìm lối thoát cho tận thế, bầu không khí u ám tột độ - rõ ràng mang dấu ấn hậu hiện đại, nhưng vẻ lộng lẫy của sụp đổ và tan rã, nét nghịch ngợm tinh quái của bi kịch và bế tắc, vẫn khiến ông trở nên không thể nhầm lẫn với bất kỳ ai khác.
Có khi chỉ trong vài trang, ông đồng thời đề cập đến ý niệm vô hạn, nỗi sợ hãi là cội nguồn của văn hóa, sự hèn nhát của chủ nghĩa vô thần, và ảo tưởng tràn lan khắp nơi.
"Thế giới chẳng qua chỉ là một sự kiện, một cơn điên, một cơn điên của hàng tỉ tỉ sự kiện" - nhân vật Giáo sư trong Nam tước Wenckheim hồi hương nói. "Và không có gì là cố định, không có gì bị giới hạn, không có gì có thể nắm bắt, mọi thứ tuột khỏi tay nếu ta cố giữ lấy". Rồi ông dẫn một đoạn thơ của thi sĩ Hungary Attila József: "Như đống gỗ bị đốn/ thế giới nằm chất đống lên chính nó".
Có thể dẫn ra đây kết luận của tạp chí văn học Paris Review viết về Krasznahorkai năm 2019: "Lời khẳng định luôn ẩn trong mỗi sự phủ định. Tiểu thuyết của Krasznahorkai có thể là một vực thẳm, nhưng đáy vực thì lấp lánh ngàn ánh sao".