Phát triển kinh tế tư nhân: Triển vọng lớn ở vùng đồng bào thiểu số và tôn giáo

Mới có khoảng 2% doanh nghiệp tư nhân hoạt động ở vùng dân tộc - miền núi, dư địa phát triển còn rất lớn. Phát triển kinh tế tư nhân ở vùng dân tộc, tôn giáo không chỉ mang tính kinh tế, mà còn có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc.
Ngày 4/5, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68, xác định: “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế”.
Đây không chỉ là định hướng chiến lược, mà còn là khát vọng đổi mới quốc gia, mở ra triển vọng lớn cho hàng triệu hộ gia đình, hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và tôn giáo. Phát huy khu vực này chính là con đường vừa nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, vừa củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hiện nay, kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 45% GDP, chiếm 30% tổng thu ngân sách, sử dụng hơn 85% lực lượng lao động và là khu vực năng động nhất trong khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
Tuy nhiên, mới chỉ có khoảng 2% doanh nghiệp tư nhân hoạt động ở vùng dân tộc - miền núi, cho thấy dư địa phát triển còn rất lớn.
Nghị quyết 68 không chỉ tháo gỡ rào cản về vốn, thủ tục, môi trường kinh doanh, mà còn khẳng định vùng dân tộc - tôn giáo là “không gian phát triển mới”. Đây là bước đột phá tư duy của Đảng trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ khởi nghiệp của cộng đồng thiểu số, hay mô hình hợp tác công - tư hạ tầng vùng khó khăn đều giúp kinh tế tư nhân bứt phá.
Phát triển kinh tế tư nhân ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo không chỉ mang tính kinh tế, mà còn có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc.
Thứ nhất, kinh tế tư nhân tạo việc làm, nâng thu nhập, giảm nghèo bền vững. Doanh nghiệp và hợp tác xã phát triển tại vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo sẽ thu hút lao động tại chỗ, hình thành chuỗi giá trị nông nghiệp, thủ công, dịch vụ, du lịch cộng đồng.
Tỷ lệ hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số hiện khoảng 17,8%, cao gấp 3 lần bình quân cả nước. Nếu có cơ chế tín dụng, khoa học công nghệ và đào tạo nghề phù hợp, tốc độ giảm nghèo sẽ nhanh hơn, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền.
Thứ hai, hình thành lớp doanh nhân người dân tộc, người có đạo. Đây là lực lượng vừa giữ bản sắc văn hóa, vừa tiếp cận chuẩn mực quản trị hiện đại, trở thành “cầu nối” gắn kết đồng bào với thị trường quốc gia và quốc tế. Họ không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, mà còn nâng cao vị thế cộng đồng, khẳng định năng lực hội nhập của người dân.
Thứ ba, tạo không gian giao thoa văn hóa, củng cố đồng thuận xã hội. Kinh tế tư nhân, qua du lịch cộng đồng, làng nghề gắn với tín ngưỡng hay sản phẩm văn hóa - ẩm thực truyền thống, mở ra cơ hội vừa bảo tồn bản sắc, vừa quảng bá rộng rãi văn hóa dân tộc. Khi “lợi ích kinh tế” hài hòa với “giá trị văn hóa - tinh thần”, sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc càng bền vững.
Tuy nhiên, thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào tôn giáo vẫn còn nhiều thách thức như: thiếu vốn, doanh nghiệp nhỏ lẻ, kỹ năng quản trị yếu, hạn chế công nghệ…
Nếu không tháo gỡ kịp thời, nguy cơ phân hóa giàu nghèo và bị lợi dụng vấn đề tôn giáo để chia rẽ đoàn kết dân tộc là hiện hữu.
Để kinh tế tư nhân thực sự trở thành “nguồn lực mới”
Để kinh tế tư nhân thực sự trở thành “nguồn lực mới” ở vùng dân tộc, tôn giáo, cần vừa nhân rộng mô hình đặc thù, vừa ban hành giải pháp tổng thể.
Hiện có khá nhiều mô hình đặc thù. Chẳng hạn, ở Tây Nguyên, doanh nghiệp tư nhân liên kết với nông dân Ê Đê, Ba Na, Gia Rai phát triển chuỗi giá trị cà phê, hồ tiêu, mắc ca, giúp tăng năng suất 15-20% và mở rộng xuất khẩu.
Ở Tây Bắc có mô hình du lịch cộng đồng tại Sa Pa, Mộc Châu biến bản làng Mông, Thái, Dao thành điểm đến hấp dẫn, giúp thu nhập hộ gia đình tăng gấp 2-3 lần, đồng thời bảo tồn tiếng nói, trang phục, lễ hội truyền thống.
Hay ở Tây Nam Bộ, cộng đồng Khmer ứng dụng nông nghiệp thông minh, phát triển du lịch miệt vườn, đưa sản phẩm đặc trưng lên sàn thương mại điện tử, mở rộng thị trường và quảng bá văn hóa - ẩm thực Khmer.
Những nhóm giải pháp cần ưu tiên gồm: Khuyến khích phát triển doanh nghiệp tuệ giác - lấy đạo lý làm nền tảng, kết hợp kinh doanh với trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường, giữ bản sắc; Hợp tác công - tư (PPP) đầu tư hạ tầng, triển khai tín dụng ưu đãi, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực tại chỗ; chuyển đổi số cộng đồng, phổ cập kỹ năng số, ứng dụng AI (trí tuệ nhân tạo), big data (dữ liệu lớn), thương mại điện tử để nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm vùng miền; tác động xã hội - chính trị, phát triển kinh tế đi đôi với củng cố văn hóa, niềm tin và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Đồng bào ta, cả lương cả giáo, cũng vì tự do hạnh phúc cho toàn dân mà hy sinh”.
Ngày nay, lời Người vẫn vang vọng, nhắc nhở rằng phát triển kinh tế tư nhân ở vùng dân tộc, tôn giáo không chỉ là yêu cầu kinh tế, mà còn là sứ mệnh chính trị, trách nhiệm lịch sử.
Mỗi hộ gia đình, mỗi người lao động vùng dân tộc - tôn giáo hãy biến nghị lực vươn lên thành hành động kiến tạo quê hương.
Mỗi chức sắc, tín đồ tôn giáo hãy tiếp nối truyền thống đồng hành cùng dân tộc, cùng gieo trồng niềm tin, tình đoàn kết và những giá trị nhân văn bất diệt.
Kinh tế tư nhân ở vùng dân tộc - tôn giáo sẽ trở thành ngọn tháp sáng của tự lực và đồng thuận, là cầu nối thiêng liêng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là minh chứng hùng hồn rằng chính sách đúng đắn của Đảng đã đi vào đời sống, biến khát vọng “không ai bị bỏ lại phía sau” thành hiện thực.