Về lại phía bình yên khi khói trận đã tan, nhưng những gì khốc liệt, đau thương, mất mát của chiến trường K vẫn in đậm trong ký ức người lính tình nguyện. Tập bút ký Những ngọn khói bên đường (NXB Trẻ phát hành) của nhà văn Đoàn Tuấn là những mảnh hồi ức khó phai về đồng đội ông - những người đã chung vai sát cánh trên mặt trận năm xưa.
Đó là giai đoạn cao trào chống chế độ diệt chủng Pol Pot - Ieng Sary trên vùng Đông Bắc đất Campuchia, 1979 - 1989. Họ - những người lính của đội quân tình nguyện VN mang tuổi thanh xuân ra chiến trường. Có người thân xác vùi trong lớp lá rừng già xứ lạ. Có người về được Tổ quốc mình nhưng thân thể không còn nguyên vẹn. Đoàn Tuấn gom nhặt lại những gương mặt đồng chí, bạn bè, tưởng nhớ họ bằng những con chữ thấm đẫm nỗi tiếc thương, trân trọng và đầy lòng biết ơn, như anh viết: "Tôi ký họa, khắc họa họ bằng ngôn ngữ, thứ duy nhất tôi có. Tôi viết để giữ họ lại, để họ không tan biến trong im lặng, không bị lãng quên giữa dòng đời hối hả. Viết, như một cách thắp lên nén nhang vô hình".
Ngọn khói trong tập bút ký Những ngọn khói bên đường chính là ngọn khói của nén nhang tưởng niệm đầy thương yêu, ngọn khói của bình yên mà nhà văn Đoàn Tuấn gửi đến đồng đội mình - những người lính chiến trường K bi hùng thuở đó.
Gương mặt người lính - vẻ đẹp trong chiến tranh
Bút pháp tả thực của Đoàn Tuấn khi ông đặc tả chân dung lính tình nguyện VN trong cuộc chiến tranh tự vệ đặc sắc khiến người đọc nổi gai ốc. Khi mất mát là thật, cái chết là thật đang hiển lộ rõ ràng trước mắt, những gì mà mắt lính nhìn thấy đều là hiện thực trần trụi, thô kệch nhất, đời nhất, bi thương nhất.
"Lính tiểu đoàn 8 từ trong rừng ra không khác gì thổ phỉ. Tóc tai trùm gáy, phủ tai. Dính bết. Không có xà phòng. Mắt trắng dã, hằn những tia đỏ ngầu vì thiếu ngủ. Gương mặt quắt lại. Hai gò má nhô lên như hai ụ mối mùa khô. Đôi môi thâm sì như hai con đỉa vắt ngang" (trích Những ngày xa chiến trận). Không chỉ đánh cược những bước chân với dày đặc bom mìn quân Pol Pot cài khắp nơi trên chiến trận, người lính còn phải chiến đấu với cả giặc đói, giặc khát. Gặp một vũng nước giữa rừng Preah Vihear, cả tiểu đoàn "như trâu đàn" lao xuống tu, uống, múc, dội. Riêng Đoàn Tuấn "tôi đã khóc với nước".
Nhưng cũng thật lạ lùng, từ những khốc liệt ấy lại tạo tác nên một vẻ đẹp ngoan cường. Vẻ đẹp của tình yêu, của khát vọng hòa bình.
Đó là vẻ đẹp trên gương mặt bình thản của người thương binh Ngô Thanh Chè nằm im lặng lẽ hút thuốc khi nửa thân thể phía sau băng trắng - sau này trở thành "hình ảnh đẹp nhất" mà đồng đội nhớ đến. Là lời tạm biệt của những người lính chỉ mới 18, 20 tuổi xuân phơi phới đã mãi mãi nằm lại chiến trường. Là nếp nhăn đầy nỗi buồn trên gương mặt, thẳm sâu trong đôi mắt của những người vợ, người mẹ có chồng, con ra trận. Là linh cảm của một người mẹ đã dang tay đỡ con mình hy sinh trên chiến trường cách xa quê nhà mấy ngàn cây số. "Hồng phúc của đất nước ở ngay trong trái tim những người mẹ già nua".
Những ngọn khói âm thầm
Không tô vẽ, không tụng ca, Đoàn Tuấn chỉ lặng lẽ thắp lên những ngọn khói nhang để tưởng nhớ. Những người lính như ông được trở về Tổ quốc nhưng "cuộc chiến không bao giờ ra khỏi họ", "Trái tim họ, cuộc chiến đã đổ bê tông". Những người lính tráng, chỉ huy oai hùng trong trận mạc khi xưa, giờ đến một nhúm xương tàn cũng "có còn gì đâu". Biết bao lần ông khâm liệm, đọc điếu văn, chôn xác đồng đội mình nhưng chưa bao giờ họ được thắp một nén nhang nơi mình ngã xuống. Ông trăn trở: "Phải chăng vì tôi mang họ theo trong tim, nên khói, dù ở đâu, lúc nào, cũng trở thành một dấu hiệu để tưởng niệm?".
Khói của những ngày hòa bình này, cũng chính là khói mà ông và đồng đội đã từng mơ ước được thấy: "Ngọn khói thơm mùi nương rẫy. Đó là bức tranh rất đẹp đầu tiên tôi nhìn thấy khi trở về Tổ quốc. Một làn khói mỏng, bay lên từ nương rẫy trên sườn đồi, sao tôi cứ đứng nhìn mãi? Trong khoảnh khắc đó, tôi biết mình đã sống, đã trở về thật rồi. Tổ quốc hiện lên không bằng cờ, không bằng khẩu hiệu, mà bằng chính làn khói xanh mờ ấy. Nó giản dị, âm thầm và bền bỉ như hơi thở".















