Đôi dòng sông Thoa và Trà Câu như hai dải lụa xanh quấn quanh làng Thủy Triều (nay là tổ dân phố Thủy Triều, P.Trà Câu, Quảng Ngãi), lặng lẽ chứng kiến bao gian lao đồng thời khắc ghi tinh thần bất khuất của người dân nơi đây.
Nhìn từ trên cao, làng Thủy Triều như chiếc phễu khổng lồ hứng trọn dòng nước từ thượng nguồn sông Trà Câu đổ về. Bao đời, người dân nơi đây oằn mình trước cảnh lũ lụt triền miên, mùa nước dữ nhấn chìm mái ngói, phủ trắng cả ruộng đồng. Thế nhưng, vượt lên thiên tai, rồi bom đạn chiến tranh, họ vẫn kiên cường bám đất, chung lưng dựng lại mái nhà, cần mẫn cuốc xới cho đồng lúa xanh tươi, mùa vàng trĩu hạt.
Ấp chiến lược thành làng chiến đấu
61 năm đã trôi qua, nhưng trong ký ức ông Võ Ngọc Thanh (85 tuổi), ngọn lửa của trận đánh năm 1964 vẫn còn rực cháy. Khi đó, ông cùng 5 chiến sĩ thuộc Đại đội 219 (Huyện đội Đức Phổ, Quảng Ngãi) do ông Ngô Đức Tấn chỉ huy, bí mật đột nhập ấp chiến lược Thủy Triều. Tại đây, họ vừa huấn luyện 10 du kích, vừa cải tạo những đoạn giao thông hào thành hệ thống liên hoàn, sẵn sàng ứng phó mọi đợt càn quét.
Sáng 12.10.1964, Liên đoàn Biệt động 37 của đối phương chia làm 2 mũi tiến vào làng. Đợi địch áp sát, bộ đội và du kích đồng loạt nổ súng. Tiếng lựu đạn nổ dồn dập. Đối phương hoảng loạn tháo chạy, bỏ lại nhiều vũ khí. Làng quê nhỏ ven sông bỗng rộn vang tiếng hò reo khi hơn chục khẩu súng AR-15 được thu về trang bị cho du kích.
Sau đó, quân địch củng cố đội hình, mở thêm nhiều đợt tấn công có cả pháo binh yểm trợ. Song, tất cả đều thất bại trước sự kiên cường của lực lượng tại chỗ. Trong ký ức ông Thanh, điều khiến ông nhớ mãi không chỉ là chiến thắng, mà còn là tấm lòng nhân hậu của chỉ huy. Sau trận đánh, ông Ngô Đức Tấn còn dặn dò y tá băng bó cho thương binh phía bên kia, rồi nhờ dân khiêng lên QL1 để họ được đưa đi cứu chữa.
"Trận ấy, ta thu được hàng trăm khẩu súng, phải huy động cả làng chuyển về Huyện đội. Sau đó, anh Tấn được Quân khu 5 triệu tập để báo cáo kinh nghiệm biến ấp chiến lược thành làng chiến đấu", ông Thanh kể, ánh mắt vẫn rực lửa như thuở trai trẻ.
Chiến thắng vang dội đó chỉ là sự khởi đầu của những ngày tháng cam go. Để trả đũa cho thất bại ê chề, đối phương lập tức phản công. Từ bộ binh, xe tăng, xe bọc thép đến tàu chiến ngoài biển, máy bay ném bom, tất cả đồng loạt nã vào Thủy Triều. Khói bom, lửa đạn cuồn cuộn, nhà cửa bốc cháy, ngôi làng ven sông như chìm trong biển lửa.
Bà Võ Thị Hạnh, 80 tuổi, khi ấy mới 19, rùng mình nhớ lại: "Ba ngày ba đêm ác liệt lắm. Mẹ nấu nướng, còn tôi gánh cơm nước đến công sự cho bộ đội, cách nhà 800 m. Rồi sau này tôi cũng vào du kích, cùng dân làng bám trụ đến ngày giải phóng". Bà Hạnh cũng tha thiết mong một ngày nhà nước công nhận trận đánh Thủy Triều là di tích lịch sử, dựng bia tưởng niệm để thế hệ mai sau luôn nhớ về khí phách cha ông.
Khi làng Thủy Triều nổi dậy
Chiến công Thủy Triều đã thôi thúc lớp lớp thanh niên khoác ba lô nhập ngũ. Thậm chí, có cả những người từng ở bên kia chiến tuyến, sau khi trở về đã đứng vào hàng ngũ du kích, cầm súng bảo vệ xóm làng.
Ông Nguyễn Dư là một trường hợp đặc biệt. Khi anh trai tập kết ra Bắc, ông ở lại quê nhà, gánh vác việc chăm sóc người mẹ già mù lòa và đỡ đần chị dâu nuôi cháu nhỏ. Nghe lời mẹ, ông sớm lập gia đình để có thêm đôi tay chia sẻ. Nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang, chỉ ít lâu sau, ông bị bắt đi quân dịch, đưa vào tận Phú Yên, để lại phía sau mái nhà chia cắt trong nỗi lo âu.
Khi làng Thủy Triều nổi dậy, người vợ trẻ chẳng quản hiểm nguy vượt hàng trăm cây số vào Phú Yên báo tin. Ngày gặp lại nơi đất khách, hai vợ chồng nghẹn ngào bàn mưu xin về phép vì "mẹ hấp hối". Nhờ lời nói dối ấy, ông được trở về. Giây phút cả gia đình ôm nhau, nước mắt tuôn như mưa.
Ngay sau đó, du kích trong làng tìm đến, nhờ ông sửa khẩu trung liên bị hỏng. Nhờ từng trải qua quân dịch, ông am tường cơ khí nên chỉ thoáng chốc đã khiến nòng súng lại vang tiếng đanh thép. Cũng từ khoảnh khắc ấy, ông dấn thân hẳn vào con đường cách mạng. "Ban đầu, tôi trực tiếp vác trung liên ra trận. Về sau, một thanh niên làng cao lớn, khỏe mạnh trốn quân dịch trở về, thay tôi gánh khẩu súng nặng nề đó", ông Dư nhớ lại.
Trong một trận đánh chênh lệch lực lượng, ông bị đối phương bao vây bắt sống, giam tại nhà lao Quảng Ngãi. Nỗi đau xé lòng ập đến khi ông hay tin người vợ trẻ chết vì trúng pháo, bỏ lại đứa con thơ mới lên 4 và người mẹ chồng mù lòa. Bi kịch ấy đeo bám ông suốt đời.
May mắn, trong một đêm táo bạo, đại đội đặc công 506A tập kích nhà lao, giải thoát ông và nhiều đồng đội. Từ đó, ông ngược núi, nhập ngũ cho đến ngày thống nhất.
Bình yên bên dòng sông
Hòa bình trở lại, ông Dư tục huyền với một đồng đội năm xưa. Cả hai cần mẫn vun vén, gắn bó với ruộng đồng, liếp rau, chuồng heo, đàn bò. "Tiền có đến đâu làm nhà đến đó", ông cười hiền, nhớ những ngày vợ chồng chắt chiu dựng nên tổ ấm sau chiến tranh. Bốn người con dần trưởng thành, nay ông bà đã có con cháu sum vầy. Ở tuổi 84, ông vẫn thường nhắc con cháu: "Hãy sống xứng đáng với thế hệ cha ông đã ngã xuống".
Từ làng chiến đấu năm xưa, nay Thủy Triều đã thành tổ dân phố khang trang với 286 hộ dân, hơn 1.200 nhân khẩu. Ruộng đồng rộng 70 ha được dồn điền đổi thửa, năng suất ngày càng cao. Người dân tự nguyện hiến đất, góp công làm đường bê tông khắp ngõ xóm. "Diện mạo quê hương thay đổi nhiều lắm. Nhà cửa xây dựng khang trang, đường sá thông thoáng, đi lại thuận tiện hơn trước", ông Nguyễn Duy Tân, Tổ trưởng tổ dân phố Thủy Triều, hồ hởi chia sẻ.
Ngày nay, những hố bom sâu hoắm một thời đã được san lấp, biến thành vườn ruộng, cho cây trái ngọt lành, lúa vàng trĩu hạt. Những hàng cau vẫn kiêu hãnh vươn thẳng trời xanh như chứng nhân thầm lặng của bao mùa giông bão. Người dân thong thả chèo ghe thả lưới, bắt cá tôm trên sông Thoa, Trà Câu, cải thiện bữa cơm thường nhật.
Chiến công năm nào vẫn được lớp cao niên truyền lại, để thế hệ con cháu lắng nghe, hiểu thêm những hy sinh không dễ gì bù đắp. Câu chuyện về những người như ông Võ Ngọc Thanh, bà Võ Thị Hạnh, ông Nguyễn Dư… trở thành sợi dây vô hình nối liền quá khứ và hiện tại, bồi đắp tình yêu quê hương trong lòng lớp trẻ.