Nhật ký mùa Vu lan: Hãy nói lời thương

Mùa Vu lan về khi trời đất chuyển sang thu, trẻ con vừa vặn ngày khai giảng.
Mùa Vu lan về, trong hương thị thơm đầu ngõ chùa quen và tiếng kinh Vu lan vang vang chạm vào từng chiếc lá, bỗng nhớ má - nhớ những kỷ niệm ngày nhỏ, những câu chuyện riêng tư.
Thương nhớ dội về lòng đứa con xa nhà, và bằng một linh cảm nào đó, cũng biết niềm thương nhớ tương tự như vầy cũng luôn ở sẵn trong lòng của má.
1
Má sinh tôi ra, đúng trong cơn thập tử nhất sinh, và bà đã vượt qua một cách kỳ diệu. Thuở ấy, người ta chỉ quen đến với những bà mụ vườn chuyên đỡ đẻ, nên chuyện sinh con cũng phụ thuộc vào những bà mụ "mát tay" với nghề. Trải qua nhiều lần sinh nở, má tôi đã biết, nên bình tĩnh đón nhận cơn đau, bình tĩnh bơi xuồng đến nhà bà mụ vườn cặm lại hai ngày một đêm mà vẫn chưa có dấu hiệu gì cho chuyện thai nhi ra đời.
Rồi bà mụ vườn, trong lần thăm sinh cuối cùng, đã lắc đầu kêu má phải đến bệnh viện vì đây là ca sinh khó. Má tôi lúc ấy đã vỡ ối, được chở gấp qua nhà thương, thêm một quãng xa quằn quại nữa.
Rồi kiên cường sinh tôi ra mà "chỉ trễ chừng vài chục phút là thai chết lưu, là không giữ được mạng cả mẹ cả con, một ngôi thai ngược nên khó sanh là vậy".
Sau này tôi hỏi má, lúc nằm trên ghe, trong cơn đau quằn quại, cảm giác đứa trẻ trong bụng đang yếu dần sức sống, má có sợ không? Có, má sợ, nhưng má ráng niệm Phật.
Ngày nhỏ tôi hay đau ốm, những trận đau toàn thập tử, chắc cũng đã khiến má tôi nhiều ngày đêm mất ăn mất ngủ vì lo lắng. Tôi bị gãy chân lúc năm tuổi, bị sốt xuất huyết gần chết lúc tám tuổi. Tôi nhớ má mình trong cánh áo bà ba cũ, chiếc quần đen luôn vo quá đầu gối, tất bật chạy gạo, tất bật chăm sóc hết đứa con này bệnh lại đứa con khác đau.
Má đã sợ đến nhường nào khi nhìn chúng tôi nằm thiêm thiếp, ở căn nhà xa vắng mịt mù lọt thỏm giữa đồng ruộng bao la. Vượt qua cơn sợ, má chỉ biết rì rầm niệm Phật.
Cũng ngày nhỏ, nhiều lần tôi chứng kiến cảnh má tôi "dữ dằn" giành chúng tôi khỏi một "thế lực siêu nhiên nào đó". Đó là những buổi trưa, anh tôi đi đâu về nằm lăn ra ngủ, người rã rượi. Rồi bỗng dưng anh đột ngột bật dậy, chạy bắn ra sân, mắt trợn trừng mặt tái xanh, vừa chạy vừa hét với cái giọng nghe líu ríu kỳ quái. Má từ đâu lao ra, kêu lớn tên anh tôi, rồi nạt "Trở vô nhà, quay lại".
Anh tôi vẫn thần sắc kỳ quặc, như không còn là mình, không nhìn lại má, miệng vẫn lắp bắp. Má túm cây chổi chà, nạt lớn "buông nó ra không, hả hả?". Sau tiếng má la nạt để anh tôi hoàn hồn, anh tức thì té xuống, mềm nhũn xụi lơ trên sân.
Má ôm anh vào lòng, tiếng "má nè, má nè" của má làm anh tỉnh lại ôm má khóc nức nở. Đó là lần đầu tiên tôi chứng kiến một đứa trẻ bị "bắt mất hồn".
Đêm đó, má tôi ngồi bên chúng tôi, lại rì rầm niệm Phật. Không biết bao giờ má ngủ. Má có sợ không, trong những tháng ngày vừa cứng rắn mạnh mẽ như người cha, vừa dịu dàng ôm ấp như người mẹ.
2
Má ít khi nào đánh hay rầy la chúng tôi. Nhưng nếu đứa nào nói dối, trộm cắp dù chỉ một trái ớt trái cà vườn hàng xóm thì má không tha. Không được gian tham, không lừa lọc, má dạy chúng tôi như vậy bằng niềm tin nhân quả, có trước có sau, làm ơn thì gặp ơn, gây thù chuốc oán thì trả bằng oán bằng thù. Niềm tin trở thành thói quen hành xử, thành đạo lý, thành "giáo khoa sống" cho những đứa con biết giữ mình lành, thiện.
Bao nhiêu chuyện xảy ra, bao nhiêu sóng gió đến với má, với từng đứa con, mà dường như có má ở đâu là trời quang mây tạnh tới đó.
Ở đâu ra cái tinh thần của người mẹ, ở đâu ra cái tinh thần của người mẹ chịu thương chịu khó, không việc gì là đáng kể và cái gì cũng có thể vượt qua, chỉ với một thúng chữ lưng mà bà được học, và những bài tự học một mình, tự đi qua bao nhiêu là cái chết, bao nhiêu là nỗi sợ hãi, để cứ thế mà vững vàng, kiên cường và mạnh mẽ.
Những đứa con cứ nhìn má như thế, thành kính, chân thực, biết tin, biết đủ, biết an, biết quý trọng sự sống, nhìn thấu chuyện làm người.
Không phải đến mùa Vu lan thì nhớ, nhưng có mùa Vu lan để nhắc nhở mình luôn biết ơn trái tim bung nở dịu dàng của má.
Và lúc nào về bên má, hãy đừng quên nói lời thương.