Nhiều nhà văn, nhà thơ bày tỏ thương tiếc nhà văn Đỗ Kim Cuông, một người hiền lành, một ông 'quan văn nghệ chân tình và đam mê sáng tác', người lính cầm bút với 'những trang viết đầy nhân văn, sâu sắc'.
Tin từ Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều cho biết nhà văn Đỗ Kim Cuông qua đời sáng nay, 23-10, tại Hà Nội.
Đỗ Kim Cuông: Người hiền trong đời, dữ dội trong văn chương
Trên trang cá nhân, ông Thiều đã dành những lời trân trọng cho nhà văn - người lính Đỗ Kim Cuông. Theo ông Thiều, nếu không đọc những gì Đỗ Kim Cuông viết, người ta nghĩ ông là người luôn sống trong bình yên và như không muốn chạm vào bất cứ ai, bất cứ cái gì có trên con đường đời 74 năm ông đã đi qua.
Nhưng trong những trang viết của mình, ông là một người lính. Bao nhiêu dữ dội ông trải vào trang viết.
"Ông viết để chống lại sự lãng quên và vô cảm của con người, chống lại những giả dối, ác độc của con người mà càng ngày như càng được quyền công khai hóa không một chút hổ thẹn trong đời sống", ông Thiều chia sẻ.
Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam kể ra những tác phẩm "không thể quên" của nhà văn Đỗ Kim Cuông: Người đàn bà đi trong mưa (1987), Nửa vành trăng khuyết, Một nửa đại đội (1988), Hai người còn lại (1989), Thung lũng tử thần (1990), Miền hoang dã (1991), Vùng trời ảo mộng (1993), Chuyện tình ở biển, Mảnh sân sau u ám (1993), Tự thú của người gác rừng (1996), Giáp ranh (1996), Cát trắng (1997), Đêm ngâu (1999), Người dị hình (2000), Thủ lĩnh vùng sông Tô (2001).
Nhà thơ, nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát thì nhớ về Đỗ Kim Cuông như nhớ một người hiền lành, tử tế. Nhiều đồng nghiệp có cùng ấn tượng như vậy về người lính viết văn Đỗ Kim Cuông.
Hết lòng cho văn hóa văn nghệ
Nhà văn Trần Dũng - chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam lâm thời tỉnh Vĩnh Long - còn nhớ những đóng góp lớn của Đỗ Kim Cuông trong vai một "quan văn nghệ".
Ông Dũng viết: "Cùng với nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà văn Tùng Điển, anh (Đỗ Kim Cuông - PV) đã hết lòng chăm lo cho việc kiện toàn các hội và phong trào văn hóa văn nghệ địa phương".
Nhà văn Đỗ Kim Cuông (sinh năm 1951), quê ở Thái Bình (nay là Hưng Yên), một cây bút trưởng thành từ môi trường văn nghệ cách mạng, có sức viết bền bỉ.
Ông nhập ngũ năm 1968, từng tham gia chiến đấu trong chiến dịch Xuân 1968, Xuân 1972 và chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.
Năm 1976, ông chuyển ngành, học Đại học Sư phạm Huế, sau đó trở thành cán bộ giảng dạy khoa ngữ văn Trường cao đẳng Sư phạm Nha Trang.
Ông từng giữ nhiều trọng trách trong công tác văn hóa - nghệ thuật: nguyên Bí thư Đảng đoàn, Phó chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hòa - Tổng biên tập Tạp chí Nha Trang, nguyên Vụ trưởng Vụ Văn hóa Văn nghệ, Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương).
Những năm cuối đời, nhà văn sống tại Hà Nội, tham gia công tác tại Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương.