Loài vật quý hiếm chưa từng xuất hiện ở bất cứ đâu trên thế giới, nay được ghi nhận ở Việt Nam: Lập tức được xếp vào tình trạng nguy cấp

Loài này sinh sống chủ yếu ở độ cao khoảng 1.000 - 1.400m, có đặc điểm di truyền và hình thái tách biệt hoàn toàn so với các loài khác trên thế giới.
Các nhà khoa học thuộc Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga cùng cộng sự đã công bố phát hiện một loài cá cóc hiếm chưa từng được ghi nhận, tại khu vực Vườn quốc gia Phia Oắc – Phia Đén, tỉnh Cao Bằng.
Loài mới được đặt tên là cá cóc Cao Bằng (tên khoa học Tylototriton koliaensis), đánh dấu loài cá cóc thứ 10 tại Việt Nam và thứ 42 trên thế giới. Công trình này đã được đăng tải trên tạp chí khoa học quốc tế Alytes.
Loài cá cóc này sinh sống ở độ cao khoảng 1.000 – 1.400 m, chủ yếu quanh Đèo Kolia và Nông trại hữu cơ Kolia. Kết quả phân tích hình thái (bao gồm cấu trúc hàm răng, xương hộp sọ) và nghiên cứu di truyền (giải mã gen ty thể ND2, 16S, cùng phân tích SPN qua kỹ thuật ddRDA) cho thấy, cá cóc Cao Bằng có đặc điểm di truyền và hình thái tách biệt hoàn toàn so với các loài cá cóc đã biết tại Việt Nam và thế giới.
Về ngoại hình, cá cóc Cao Bằng có lưng và tứ chi màu đen, bụng xám đen; các đầu ngón chi và một phần lòng bàn có sắc cam tươi; một dải cam kéo dài dọc mép dưới đuôi đến chóp đuôi. Khác nhiều loài cùng giống, chúng không có vệt cam sáng ở tuyến mang tai hoặc các nốt sần bên sườn.
Cá thể đực dài 56,0 – 61,4 mm, cá thể cái dài 70,8 – 73,0 mm. Da thô, nốt nhỏ dần về phía lưng; đường gờ đốt sống rõ, nhưng gờ dọc trên đầu kém nổi bật; hai bên sườn có 10–12 nốt sần lớn xen kẽ các nốt nhỏ.
Loài này sinh sản vào mùa hè (tháng 4 – 7), thườn xuất hiện ở suối chảy chậm hoặc vũng nước sâu 30 – 50 cm. Nòng nọc có đầu rộng, đuôi ngắn hơn thân, vây đuôi cao hơn vây bụng; màu sẫm, trừ ngón chi và vây bụng có sắc vàng. Mùa đông, chúng sống trên cạn, trú ẩn dưới đá hoặc hang hốc.
Cá cóc là nhóm lưỡng cư đang bị đe dọa nghiêm trọng toàn cầu, được đưa vào phụ lục của Công ước CITES. Ở Việt Nam, các loài thuộc giống Tylototriton nằm trong Phụ lục IIB Nghị định 84/2021/NĐ-CP, nhằm bảo vệ động vật rừng quý hiếm. Theo Danh lục Đỏ IUCN (2/2025), 22 loài cá cóc của giống này được xếp từ mức Sắp nguy cấp (VU) đến Cực kỳ nguy cấp (CR).
Trước nguy cơ biến đổi khí hậu và môi trường sống bị thu hẹp, nhóm nghiên cứu đề xuất xếp cá cóc Cao Bằng vào Danh lục Đỏ IUCN với tình trạng Nguy cấp (EN) để sớm có biện pháp bảo tồn.
Ngoài ra, Việt Nam cũng từng ghi nhận sự xuất hiện của một loài hiếm là cá cóc Tam Đảo, tên khoa học Paramesotriton deloustali, còn được gọi là cá cóc bụng hoa, tắc kè nước hay cá sấu cạn, là loài lưỡng cư có đuôi đặc hữu của Việt Nam, được ghi nhận lần đầu vào năm 1934. Đây cũng là loài lưỡng cư có đuôi duy nhất từng được tìm thấy ở nước ta.
Loài này sở hữu cơ thể thon dài như thằn lằn, kèm chiếc đuôi dẹp, thích nghi với cả môi trường nước và trên cạn. Khi di chuyển trên đất liền, chúng sử dụng hai chi trước để chống và đẩy cơ thể, tạo dáng đi có phần giống loài cóc.
Bề mặt da cá cóc Tam Đảo xù xì, nhiều mụn cóc tiết chất nhầy, xếp thành hàng dọc sống lưng kéo dài đến đuôi. Mặt lưng thường có màu đen, trong khi phần bụng nổi bật với nền đỏ điểm các đường xám đen đan xen, tạo thành hoa văn đặc trưng. Tên gọi “cá” bắt nguồn từ việc phần thân trước có hai chi nhỏ nhô ra hỗ trợ di chuyển, kết hợp với vây và đuôi tương tự cá.
Chiều dài cơ thể dao động 14–20 cm, con cái thường lớn hơn con đực. Vào mùa sinh sản, cá thể đực xuất hiện một dải xanh sáng chạy dọc hai bên đuôi, mép đuôi đỏ da cam, rõ nhất ở đoạn gần hậu môn. Chúng có bốn chi ngắn nhưng rắn chắc, giúp bò nhanh trên cạn, trong khi dưới nước di chuyển nhờ các động tác uốn lượn của đuôi, với chân ép sát thân.
Thức ăn của cá cóc Tam Đảo gồm sâu bọ, nhện, giun, nòng nọc, ếch nhái non và cả rong rêu. Đây là một trong những loài động vật quý hiếm bậc nhất thế giới, chỉ phân bố tại Việt Nam và có khả năng sinh tồn ở cả hai môi trường sống.
(Tổng hợp)