Kỳ thi khắc nghiệt chỉ “tinh hoa của tinh hoa” mới vượt qua: Được thi duy nhất 1 lần trong đời, toàn nhân tài cạnh tranh, ra nghề được săn đón hàng đầu

Đây được xem là “lò đào tạo tinh hoa nhất” chỉ đến 1 lần trong đời của các sinh viên hệ chính quy đã tốt nghiệp ngành Y.
Cơ hội “chỉ đến duy nhất 1 lần”
Chương trình bác sĩ nội trú từ lâu đã được xem là mục tiêu mà nhiều sinh viên Y khoa hướng đến, bởi đây là cơ hội rèn luyện kiến thức chuyên môn, tích lũy kỹ năng và trải nghiệm thực hành thực tế.
Theo thông tin từ Trường Đại học Y Hà Nội, đây là bậc đào tạo dành cho những sinh viên hệ chính quy đã tốt nghiệp ngành Y, mong muốn tiếp tục nâng cao trình độ. Chương trình kéo dài từ 2 đến 4 năm và được coi là hình thức đào tạo tinh hoa nhất trong lĩnh vực Y khoa.
Thông thường, sau 6 năm học đại học, sinh viên có thể lựa chọn thi tuyển vào hệ bác sĩ nội trú nếu đáp ứng đủ điều kiện: dưới 27 tuổi, không có tiền sử kỷ luật và đã tốt nghiệp Y khoa chính quy.
Lưu ý, mỗi người chỉ được tham gia kỳ thi tuyển bác sĩ nội trú duy nhất một lần trong sự nghiệp.
Bài thi tuyển được tổ chức dưới hình thức trắc nghiệm, mỗi môn có thời gian làm bài 90 phút. Thí sinh sẽ trải qua 4 môn: hai môn chuyên ngành, một môn cơ sở và một môn ngoại ngữ (có thể chọn tiếng Anh, Pháp hoặc Trung).
Hiện nay, một số trường đại học lớn đang triển khai đào tạo bác sĩ nội trú gồm: Trường Đại học Y Hà Nội, Đại học Y Dược TP.HCM, Đại học Y Dược Cần Thơ, Đại học Y Huế và Khoa Y Dược – Đại học Quốc gia Hà Nội...
Có thể hành nghề ngay sau khi đào tạo, nhiều cơ hội việc làm
Trong quá trình đào tạo, bác sĩ nội trú được phân bổ theo từng khối chuyên ngành. Với khối Nội khoa, có các lĩnh vực: huyết học – truyền máu, hồi sức cấp cứu, nhi khoa, tim mạch, thần kinh, lao, truyền nhiễm, da liễu, tâm thần, y học cổ truyền, y học hạt nhân, phục hồi chức năng…
Ở khối Ngoại khoa và các chuyên ngành phẫu thuật, có: ngoại tổng quát, sản phụ khoa, răng hàm mặt, tai mũi họng, gây mê hồi sức, nhãn khoa, chẩn đoán hình ảnh, phẫu thuật tạo hình, ung bướu…
Ngoài ra, còn có nhóm y học cơ bản và dự phòng như: vi sinh, ký sinh trùng, mô phôi, giải phẫu bệnh, sinh lý học, y học dự phòng.
Một ưu điểm lớn của hệ đào tạo này là sau khi hoàn thành chương trình, bác sĩ nội trú có thể hành nghề ngay, không cần trải qua thêm giai đoạn học tập nào khác. Đồng thời, cơ hội làm việc tại các bệnh viện tuyến trung ương hoặc các cơ sở y tế đầu ngành cũng rộng mở hơn so với nhiều hệ đào tạo khác.
Đầu năm nay, bảng lương bác sĩ được quy định như sau:
Bảng lương bác sĩ: Chức danh nghề nghiệp bác sĩ, gồm bác sĩ cao cấp (hạng I); bác sĩ chính (hạng II); bác sĩ (hạng III).
Trong đó, bác sĩ cao cấp áp dụng hệ số lương viên chức loại A3, nhóm A3.1 có hệ số lương từ 6,2 - 8,0; bác sĩ chính áp dụng hệ số lương viên chức loại A2 nhóm A2.1 có hệ số lương từ 4,4 - 6,78; bác sĩ áp dụng hệ số lương viên chức loại A1, có hệ số lương từ 2,34 - 4,98.
Cực khát nhân lực chất lượng cao
GS.TS Tạ Thành Văn – Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Y Hà Nội – cho biết, chương trình đào tạo bác sĩ nội trú ở Việt Nam được khởi xướng tại Trường Đại học Y Hà Nội từ năm 1974. Tính đến nay, hành trình này đã hơn nửa thế kỷ.
Trong suốt 50 năm, Đại học Y Hà Nội luôn giữ vai trò là đơn vị đào tạo bác sĩ nội trú lớn nhất cả nước, chiếm tới 41% tổng số bác sĩ nội trú toàn quốc. Riêng tại trường, tính đến đầu năm 2024, đã có 5.159 bác sĩ nội trú được đào tạo và tốt nghiệp.
Theo GS.TS Văn, trong giai đoạn 40 năm đầu tiên, chương trình bác sĩ nội trú được thiết kế với mục tiêu đào tạo đội ngũ nhân lực y tế tinh hoa, chỉ tiêu tuyển sinh mỗi năm đều rất hạn chế. Sinh viên phải trải qua một kỳ thi tuyển đầu vào đầy cạnh tranh, sau đó là chương trình học kéo dài 3 năm với yêu cầu cao từ nội dung đào tạo đến chuẩn đầu ra. Vì vậy, mỗi khóa chỉ có số lượng nhỏ bác sĩ nội trú được lựa chọn.
Trên thế giới, hình thức đào tạo bác sĩ nội trú đã trở thành chuẩn mực bắt buộc với tất cả bác sĩ trước khi hành nghề. Ở Việt Nam, cùng với nhu cầu khám chữa bệnh chất lượng cao ngày càng gia tăng, hệ thống đào tạo y khoa cũng cần có sự điều chỉnh để hội nhập và đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực trình độ cao.
Chính vì vậy, những năm gần đây, mô hình đào tạo bác sĩ nội trú tại Việt Nam đã có nhiều thay đổi đáng kể so với trước đây. Nếu như trước năm 2015, tỷ lệ sinh viên y khoa tiếp tục học nội trú sau khi tốt nghiệp chỉ chiếm dưới 10%, thì từ năm 2016 đến nay, con số này đã tăng dần, có thời điểm đạt từ 20% lên tới 75%.
(Tổng hợp / Ảnh minh họa: Internet)