Nhảy đến nội dung
 

Kinh tế Việt Nam 80 năm: Từ ngày kiến quốc tới kỷ nguyên vươn mình

Chặng đường 80 năm kinh tế Việt Nam là minh chứng sống động cho sức mạnh ý chí, cho tầm vóc đổi mới và khát vọng vươn lên của dân tộc.

Chặng đường 80 năm kinh tế Việt Nam là minh chứng sống động cho sức mạnh ý chí, cho tầm vóc đổi mới và khát vọng vươn lên của dân tộc. Nhưng phía trước, những thách thức mới đang hiện hữu nguy cơ bẫy thu nhập trung bình, sức ép chuyển đổi xanh - số và yêu cầu bứt phá thể chế. Đó không chỉ là bài toán kinh tế, mà còn là lời nhắc nhở về trách nhiệm lịch sử đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, thịnh vượng vào năm 2045.

Từ nền kinh tế kiệt quệ tới công xưởng châu Á

Trao đổi với PV Tiền Phong, Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long nhấn mạnh thời khắc ngay khi giành độc lập năm 1945: Việt Nam phải đối mặt với muôn vàn khó khăn như nạn đói, giặc ngoại xâm, giặc dốt... nền kinh tế kiệt quệ. Trong suốt 3 thập kỷ kháng chiến, được đặt trong cơ chế bao cấp, tập trung chủ yếu vào tự lực tự cường, ưu tiên phục vụ kháng chiến. Dù nghèo nàn, nhưng giai đoạn này đã tạo nền tảng tinh thần và tổ chức cho một nền kinh tế độc lập, với các mô hình hợp tác xã nông nghiệp, xí nghiệp quốc doanh và hệ thống phân phối tập trung.

Thời kỳ bao cấp và đổi mới (1975 - 1986): Sau thống nhất, Việt Nam áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, với kỳ vọng nhanh chóng . Tuy nhiên, mô hình này bộc lộ nhiều bất cập lạm phát phi mã (có thời kỳ lên đến 700%/năm), sản xuất đình trệ, khan hiếm hàng hóa. Đỉnh điểm, đến giữa thập niên 1980, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng toàn diện. Chính bối cảnh này đã đặt ra yêu cầu đổi mới.

Kinh te Viet Nam anh 1Kinh te Viet Nam anh 2

Người dân xếp hàng mua đồ và tem phiếu mua hàng thời bao cấp. Ảnh: Tư liệu.

Đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế (1986 - 2000): Đại hội VI (1986) đánh dấu bước ngoặt khi Đảng khởi xướng đường lối đổi mới, chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết quả là GDP giai đoạn 1990 - 2000 tăng trưởng trung bình 7,6%/năm. tăng trưởng vượt bậc, từ 789 triệu USD năm 1986 lên hơn 14,5 tỷ USD năm 2000. Việt Nam từng bước mở cửa, bình thường hóa quan hệ với Mỹ (1995) và gia nhập ASEAN (1995).

Thời kỳ hội nhập sâu rộng và tăng trưởng cao (2000 - 2020): Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam tăng tốc hội nhập kinh tế quốc tế như gia nhập WTO (2007), ký hàng loạt hiệp định thương mại tự do (CPTPP, EVFTA, RCEP). Thành quả nổi bật là tổng sản phảm quốc nội (GDP) năm 2020 đạt hơn 270 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người vượt 2.750 USD, so với 130 USD năm 1990. Việt Nam trở thành công xưởng mới của châu Á, với dòng vốn FDI tích lũy đạt hơn 380 tỷ USD. Tỷ lệ nghèo đa chiều giảm mạnh, từ hơn 58% năm 1993 xuống dưới 3% vào năm 2020.

Kinh te Viet Nam anh 3Kinh te Viet Nam anh 4

Biểu đồ tăng trưởng GDP và thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam từ năm 1986 đến 2025. Ảnh: Lộc Liên.

Trong bối cảnh mới (2020 - 2025): Dù chịu tác động nặng nề từ COVID-19, Việt Nam vẫn là một trong số ít duy trì tăng trưởng dương năm 2020 (2,9%). Đến năm 2024, GDP danh nghĩa đạt khoảng 433 tỷ USD, quy mô đứng thứ 5 Đông Nam Á, với thu nhập bình quân đầu người đạt 4.620 USD (theo Ngân hàng Thế giới). Việt Nam chính thức bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình cao.

Những "con số biết nói" sau 80 năm

PGS, TS. Ngô Trí Long chỉ ra dấu mốc quan trọng nhất trong sự phát triển là ổn định kinh tế vĩ mô. Trong giai đoạn 2014-2024, lạm phát bình quân chỉ xấp xỉ 2,9%/năm, liên tục nằm dưới mục tiêu 4%, điều này phản ánh năng lực điều hành giá và chính sách vĩ mô thận trọng.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế năm 2024, nông, lâm, thủy sản còn 11,86% GDP; công nghiệp và xây dựng 37,64%; dịch vụ 50,5%, cho thấy dịch vụ và công nghiệp trở thành trụ cột tăng trưởng. Xuất khẩu bứt phá năm 2024, xuất khẩu đạt 405,5 tỷ USD (tổng 786,3 tỷ USD; xuất siêu gần 24,8 tỷ USD).

Kinh te Viet Nam anh 5

Từ năm 1986 đến nay, quy mô xuất khẩu Việt Nam hiện lớn gấp hơn 500 lần. Ảnh: CĐN.

So với gần 789 triệu USD năm 1986, quy mô xuất khẩu hiện lớn gấp hơn 500 lần - một bước nhảy vọt về năng lực sản xuất và hội nhập. Hiện nay, Việt Nam đã ký kết và thực thi 17 FTA và nhiều đang đàm phán (trong đó có CEPA Việt Nam - UAE; ASEAN - Canada), nổi bật là các FTA “thế hệ mới” như CPTPP, EVFTA, UKVFT giúp đa dạng thị trường, tăng sức chống chịu chuỗi cung ứng. Xã hội và con người tuổi thọ trung bình 2023 đạt 74,5 tuổi; tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh giảm mạnh, bảo hiểm y tế bao phủ gần 93% dân số - các chỉ tiêu phúc lợi được cải thiện rõ rệt trong ba thập kỷ qua.

Đột phá thể chế - nền móng của phát triển

Từ những kết quả đạt được, PGS.TS Ngô Trí Long khẳng định, đột phá thể chế - nền móng của phát triển. Thể chế phải thực sự trở thành “bệ đỡ” cho phát triển bền vững. Sau 80 năm, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu, song chất lượng thể chế kinh tế thị trường vẫn còn khoảng cách với các nước tiên tiến. Để bứt phá, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, minh bạch, vận hành trên nền tảng pháp quyền. Điều này đòi hỏi đơn giản hóa thủ tục hành chính, loại bỏ rào cản kinh doanh, xây dựng môi trường cạnh tranh công bằng và nâng cao năng lực quản trị nhà nước.

Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2023 của Diễn đàn kinh tế thế giới, Việt Nam mới đứng thứ 67/141 quốc gia về thể chế - cho thấy dư địa cải cách còn rất lớn.

Kinh te Viet Nam anh 6

Để bứt phá, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, minh bạch, vận hành trên nền tảng pháp quyền. Ảnh: Huy Thoai/Getty Images.

Việt Nam cần nâng tầm năng suất và đổi mới sáng tạo. Để thoát khỏi , động lực then chốt là năng suất và đổi mới sáng tạo. Năng suất lao động của Việt Nam năm 2023 mới đạt khoảng 18.000 USD theo sức mua tương đương (PPP), chỉ bằng 20% Malaysia và 6% Singapore (theo số liệu của Ngân hàng Thế giới). Muốn bứt phá, Việt Nam cần đầu tư mạnh vào khoa học - công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, công nghệ xanh - những lĩnh vực định hình kinh tế toàn cầu trong thập kỷ tới. Xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tạo điều kiện để trở thành lực lượng dẫn dắt.

Hiện khu vực tư nhân chiếm hơn 42% GDP, nhưng tỷ lệ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) còn hạn chế, cần tăng chi cho R&D từ mức 0,42% GDP (2021) lên ít nhất 2% GDP vào năm 2030 - ngang bằng Hàn Quốc ở giai đoạn đầu phát triển, thay vì thấp hơn xa mức trung bình 2,5% của OECD.

Kinh te Viet Nam anh 7

Về xây dựng nền , chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long cho biết, trong bối cảnh biến đổi khí hậu và chuyển dịch năng lượng toàn cầu, Việt Nam không thể đi theo con đường phát triển “nâu” truyền thống. Trong phát triển năng lượng tái tạo, Việt Nam hiện đã lắp đặt trên 20 GW điện mặt trời và hơn 5 GW điện gió, đứng thứ 9 thế giới về công suất điện mặt trời (IEA 2024). Tương lai cần hướng tới hydrogen xanh và lưu trữ năng lượng.

Việt Nam cần thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, năm 2023 kinh tế số chiếm khoảng 16,5% GDP, mục tiêu đến năm 2030 là trên 30% GDP. Đây sẽ là động lực tăng trưởng mới nếu Việt Nam đi đầu trong ứng dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo và dịch vụ công trực tuyến. Về xây dựng thị trường carbon, Việt Nam đặt mục tiêu vận hành thí điểm thị trường carbon vào nay và chính thức từ 2028, tạo công cụ kinh tế để giảm phát thải, đồng thời nắm bắt cơ hội từ xu thế kinh tế tuần hoàn.

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: daisanjsc@gmail.com

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn