Kinh tế thể thao ở Việt Nam, 'mỏ vàng' bị bỏ quên: Đã đến lúc phải thay đổi tư duy

Tiềm năng khai thác kinh tế thể thao, nguồn nhân lực chất lượng cho ngành này ở VN vẫn còn yếu, thiếu và cần được cải thiện.
THIẾU NGUỒN NHÂN LỰC CHUYÊN SÂU về kinh tế thể thao
Khi nói về thể thao, số đông sẽ nghĩ đến các VĐV, HLV, những người trực tiếp tham gia vào công tác chuyên môn, tạo ra những khoảnh khắc giàu cảm xúc cho người hâm mộ. Họ là phần quan trọng, trực tiếp mang về những nguồn lợi nhuận lớn, tạo ra "dòng chảy" của kinh tế thể thao. Nhưng để có thể phát triển bền vững, kinh tế thể thao cần thêm rất nhiều người đứng phía sau ánh hào quang. Đó là những nhà quản lý, marketing, truyền thông, đội ngũ chuyên gia, người đại diện… Họ có thể không được công chúng biết đến nhưng cũng đóng vai trò quan trọng để kinh tế thể thao phát triển mạnh mẽ.
Nhiều nước ở châu Âu, thể thao từ lâu đã là một ngành công nghiệp khổng lồ. Các CLB bóng đá như M.U, Real Madrid hay Barcelona có những phòng ban chuyên trách về kinh doanh, marketing, chăm sóc người hâm mộ, phân tích dữ liệu… Bên cạnh đội ngũ làm chuyên môn, các đội bóng danh tiếng này còn có "bộ máy" nhân sự khổng lồ với hàng trăm nhân viên hậu cần, truyền thông, luật sư, chuyên gia tài chính.
Những VĐV đẳng cấp thế giới như Cristiano Ronaldo hay Lionel Messi không thể tự mình quản lý tất cả. Họ có cả ê kíp lo hợp đồng, thương hiệu, quan hệ công chúng, sản xuất nội dung trên mạng xã hội. Nhờ vậy, mỗi siêu sao không chỉ tỏa sáng trên sân cỏ, mà còn trở thành thương hiệu toàn cầu, mang về doanh thu khổng lồ. Đây là những mô hình mà thể thao VN có thể học hỏi. Điều quan trọng nhất là VN xây dựng được nền tảng nhân lực đủ giỏi, am hiểu cả thể thao lẫn kinh tế, để tạo ra sự gắn kết giữa chuyên môn và thương mại.
Theo số liệu của Vụ Đào tạo thuộc Bộ VH-TT-DL, đến năm 2025, nhân lực toàn ngành thể thao trên cả nước cần được bổ sung 3.658 người, trong đó nhân lực được đào tạo ngành quản lý thể thao là 563 người gồm: tiến sĩ 4 người, thạc sĩ 63 người, cử nhân 486 người; các ngành khác 10 người. Đến năm 2030, nhân lực toàn ngành thể thao trên cả nước cần được bổ sung 4.342 người, trong đó nhân lực được đào tạo ngành quản lý thể thao là 682 người gồm: tiến sĩ 14 người, thạc sĩ 89 người, cử nhân 545 người; các ngành khác 34 người.
Khoảng trống nhân lực chất lượng cao bộc lộ rõ ở thể thao VN, trong đó bóng đá VN là ví dụ điển hình. Nhiều CLB tại V-League, hạng nhất không thể "lấy bóng đá nuôi bóng đá", không giỏi làm marketing để xây dựng hình ảnh, nâng cao giá trị thương hiệu, từ đó bán được các sản phẩm, thu hút nhà tài trợ. Nhiều đội chủ yếu phụ thuộc vào nguồn tiền của các ông bầu. Một khi việc kinh doanh của các ông bầu khó khăn, CLB dễ rơi vào tình trạng phải giải thể, cầu thủ bị nợ lương, thưởng. Nếu có đủ nhân lực vừa giỏi chuyên môn thể thao, biết cách làm kinh tế, các CLB sẽ phát triển bền vững.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Hiền Thanh, Giám đốc chương trình ngành kinh tế thể thao của Trường ĐH Hoa Sen, chia sẻ với Thanh Niên: "Chúng ta đang rất thiếu đội ngũ chuyên gia kinh tế thể thao. Một số trường có ngành quản lý thể dục thể thao nhưng về cơ bản chỉ mới cung cấp được các kiến thức về quản lý chung chứ chưa thực sự đào tạo nhân lực đủ khả năng khai thác kinh tế về thể thao. Điều này một phần đến từ việc chưa nhận thấy thể thao có thể trở thành mũi nhọn để khai thác kinh tế. Trên thế giới, ở những quốc gia có nền thể thao phát triển, ngành kinh tế thể thao đóng góp một phần không nhỏ vào GDP, thậm chí được xem là "con gà đẻ trứng vàng", nhưng tại VN thì chưa".
ĐÂU LÀ GIẢI PHÁP?
Để kinh tế thể thao không mãi là "mỏ vàng bị bỏ quên", trước hết cần sự thay đổi trong tư duy quản lý. Thể thao không chỉ là thành tích, huy chương, danh hiệu mà phải được nhìn nhận như một ngành "công nghiệp" với hệ sinh thái gồm: CLB, VĐV, doanh nghiệp, truyền thông, cơ sở đào tạo, có thể tạo ra những giá trị thương mại.
Tiến sĩ Hiền Thanh nói thêm: "Bên cạnh việc đào tạo những người làm chuyên môn, chúng ta cũng cần đào sâu vào việc phát triển nguồn nhân lực cho ngành kinh tế thể thao. Các trường đại học nên phát triển theo hướng ứng dụng, gắn chặt với nhu cầu thực tiễn của các CLB, liên đoàn hay doanh nghiệp. Sinh viên cần được rèn luyện các kỹ năng về marketing thể thao, quản lý sự kiện, truyền thông mạng xã hội, phân tích dữ liệu… để khi ra trường có thể làm việc ngay trong hệ sinh thái thể thao. Song song đó, việc hợp tác quốc tế với những nước có nền kinh tế thể thao phát triển sẽ giúp rút ngắn khoảng cách về kiến thức và kinh nghiệm".
Nếu xây dựng được nguồn nhân sự chất lượng, các CLB, tổ chức ở VN có thể sớm đủ khả năng tự chủ tài chính, tự vận hành. Hãy nhìn vào CLB M.U để nhìn thấy bài học. Họ không có thành tích tốt trong những mùa giải gần đây, nhưng vẫn là thương hiệu thể thao hàng đầu thế giới. Điều đó cho thấy giá trị lớn nhất không nằm ở kết quả một mùa giải, mà ở khả năng duy trì cộng đồng người hâm mộ trung thành, sẵn sàng chi trả cho các sản phẩm và dịch vụ liên quan.
Thể thao VN cũng cần khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia sâu hơn. Thay vì chỉ tài trợ ngắn hạn cho một vài giải đấu, các doanh nghiệp có thể đầu tư chiến lược, đồng hành cùng CLB hoặc VĐV theo mô hình đôi bên cùng có lợi. Khi VĐV được quảng bá hình ảnh, doanh nghiệp được hưởng lợi thương mại, cả hai đều phát triển, và từ đó tạo động lực để đầu tư dài hạn. Điều khó khăn hiện tại là nhiều doanh nghiệp vẫn chưa nhìn nhận đúng giá trị thương mại mà thể thao có thể mang lại.
Cuối cùng, chúng ta cần chú trọng vào truyền thông và công nghệ. Thời đại số mở ra cơ hội để thể thao tiếp cận người hâm mộ nhanh chóng hơn bao giờ hết. Việc khai thác nền tảng số để tổ chức giải đấu online, phát sóng trực tiếp, bán vé điện tử, hay xây dựng cộng đồng người hâm mộ trực tuyến sẽ tạo ra nguồn thu khổng lồ. (còn tiếp)