Khu thương mại tự do: bài học từ Thượng Hải, Singapore

Các chuyên gia nhận định đề xuất thành lập 4 khu thương mại tự do (FTZ) tại TP.HCM là phù hợp và khả thi trong các điều kiện hiện nay.
Nhưng TP.HCM cần có các bước đi ban đầu chính xác để các FTZ này sớm đi vào hoạt động hiệu quả.
Đưa FTZ từ lý thuyết đến thực tiễn
Chia sẻ với Tuổi Trẻ, TS Vũ Kim Hạnh Dung - trưởng bộ môn luật thương mại quốc tế Trường ĐH Kinh tế - Luật (ĐHQG TP.HCM) - cho rằng trong khu vực có rất nhiều FTZ khác nhau nên vấn đề là sự cạnh tranh trong chính sách giữa các quốc gia.
Theo quy hoạch TP.HCM sẽ có 4 khu thương mại tự do: khu Cần Giờ, khu Cái Mép Hạ gắn với cảng biển, khu Bình An và khu Bàu Bàng. Đề xuất của TP.HCM về 4 khu FTZ với 4 công năng khác nhau, tùy thuộc vào từng khu vực là đề xuất thông minh và phù hợp, nhưng cũng lưu ý rằng mỗi FTZ nên có chính sách và khung pháp lý phù hợp với mục tiêu của FTZ đó.
"TP.HCM nên bắt đầu bằng một thí điểm hẹp để giảm rủi ro, kiểm chứng hiệu quả chính sách và xây dựng cơ sở dữ liệu thực tiễn trước khi nhân rộng. Việc thí điểm sẽ giúp điều chỉnh khung pháp lý, thu hút đầu tư ban đầu và tạo động lực lan tỏa", bà Dung nêu.
Theo đó khu Cần Giờ có thể học hỏi mô hình của FTZ Thượng Hải cách xây dựng cơ chế thí điểm vượt khung pháp lý quốc gia, ưu tiên công nghệ và tài chính để lan tỏa tăng trưởng ra khu vực lân cận, đồng thời áp dụng mô hình thí điểm để kiểm tra hiệu quả trước khi mở rộng.
Khu Cái Mép Hạ với cảng biển có sẵn và hạ tầng tốt có thể học hỏi mô hình FTZ của Singapore bằng cách tập trung logistics và thương mại tự do để kết nối với cảng biển; giảm thủ tục hành chính để thu hút đầu tư nhanh chóng; miễn thuế hoàn toàn cho hàng hóa lưu kho/transit, cho phép sở hữu 100% nước ngoài; tích hợp logistics và tài chính offshore; khung pháp lý minh bạch, ít rào cản hành chính.
Trong mắt của chuyên gia tư vấn đầu tư như ông Vlad Savin, đối tác tại Công ty Acclime Việt Nam, việc thành lập 4 khu FTZ tại TP.HCM là một bước đi chính sách táo bạo. Chuyên gia này đề xuất TP.HCM bước đầu tiên để biến kế hoạch trên thành hiện thực một cách hiệu quả là thiết lập một khung pháp lý vững chắc, trong đó xác định rõ ràng các thủ tục, cơ chế quản lý và ưu đãi đầu tư phù hợp với các FTZ.
Theo ông Vlad, Việt Nam hiện chưa có tiền lệ về việc phân cấp thẩm quyền, khuôn khổ pháp lý và thủ tục cụ thể cho các khu kinh tế tự do. Do đó, bước đầu tiên và cấp bách nhất là thành phố cần đề xuất một cơ chế thí điểm về FTZ thông qua một nghị quyết riêng, có sự tham vấn chặt chẽ với Quốc hội và các bộ ngành liên quan.
"Điều này sẽ giúp hình thành các hướng dẫn rõ ràng về phê duyệt đầu tư, quy định lao động, thủ tục hải quan và khuyến khích nhà đầu tư. Nếu không có khuôn khổ như vậy, các FTZ có nguy cơ trở nên đầy tham vọng về mặt khái niệm, nhưng lại bị phân mảnh về mặt hoạt động", ông Vlad nói.
Học hỏi gì từ Thượng Hải, Singapore?
Theo thống kê của Viện Kiel, hiện có hơn 5.000 đặc khu kinh tế trên toàn thế giới và xu hướng này đang gia tăng. Các khu kinh tế tự do này chịu trách nhiệm xuất khẩu với trị giá ít nhất 3.500 tỉ USD mỗi năm, tương đương khoảng 20% thương mại hàng hóa toàn cầu.
Riêng với Trung Quốc, trong năm 2024 nước này có 22 FTZ với tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút được là 282 tỉ USD, chiếm 24,3% lượng FDI cả nước. Hình mẫu nền kinh tế hàng đầu trong khu vực là Singapore đã ban hành luật về FTZ từ năm 1966, với FTZ đầu tiên được thành lập vào năm 1969.
So sánh để thấy trong bối cảnh TP.HCM định hình trở thành trung tâm tài chính, kinh tế tầm khu vực và quốc tế, việc hình thành các hình mẫu FTZ thành công như tại Thượng Hải và Singapore đủ thu hút vốn ngoại là điều cần thiết.
Việt Nam có thể áp dụng mô hình phân vùng từ các FTZ ở các nước để cân bằng được giữa hiệu quả và tính bền vững lâu dài.
Theo chuyên gia này, các FTZ thành công trên toàn cầu thường không có tính "đồng phục", nhưng được cấu trúc chiến lược để đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư, doanh nghiệp và cộng đồng.
Bằng cách tổ chức các khu vực chức năng cho logistics, công nghiệp, thương mại, dịch vụ tài chính và dân cư, các FTZ có thể tạo ra một hệ sinh thái tích hợp, trong đó các thành phần sẽ hỗ trợ nhau.
"Thành công của Singapore dựa trên nền tảng quản trị trên luật lệ và sự tích hợp liền mạch của cơ sở hạ tầng, trong khi thành công của Thượng Hải nằm ở khả năng thử nghiệm các cải cách tài chính và chuyên môn hóa theo ngành. TP.HCM có thể và sẽ phải học hỏi từ cả hai", ông Vlad chia sẻ thêm.